TỰA
Cũng như hai quyển “Dân luật khái luận” và “Luật gia đình”, quyển “Nghĩa vụ và khế ước” trong Bộ Việt Nam Dân luật lược khảo chỉ là một khóa bản được soạn thảo cho các sinh viên Trường Luật. Với tinh thần ấy, tác giả đã cố gắng trình bày các vấn đề một cách chính xác và giản dị, nhiều khi phải loại bỏ những chi tiết hoặc những lý thuyết quá tế nhị đối với các sinh viên. Tuy nhiên, nghiên cứu về luật khoa, cần phải chú trọng vào tinh thần của pháp luật, vào các lý do gây nên sự hưng phế của các định chế pháp lý. Do đó, trong sách này, đã dành một địa vị quan trọng cho phần bình luận, để rèn luyện cho các sinh viên óc phê bình khoa học trong sự phân tích luật pháp cũng như án lệ hiện thời.
Phương pháp suy luận này xét ra càng cần thiết trong địa hạt các nghĩa vụ và khế ước. Luật pháp về nghĩa vụ vốn liên quan đến các tài sản và các quyền lợi có tính các lý tài; luật pháp ấy đã nêu lên tự ngàn xưa những nguyên tắc căn cứ vào công bình và lấy lý trí làm cơ sở. Trên con đường quyền lợi, hai tiêu chuẩn lý trí và công bình ấy vẫn còn được luật pháp hiện đại thừa nhận; vì vậy một số lớn các nguyên tắc trong nghĩa vụ pháp đã được lưu truyền từ cổ luật La Mã đến ngày nay trên khắp thế giới.
Song cổ luật Việt Nam, cũng như cổ luật Đông Phương, đã không lưu tâm giải quyết các vấn đề liên hệ đến nghĩa vụ pháp, vì tin rằng nhờ sự hòa hợp trong xã hội lấy lễ, nghĩa làm trọng, các mối giao thiệp giữa tư nhân, trên nguyên tắc, không thể gây nên được những tương tranh về quyền lợi. Vạn nhất, các vụ xung đột ấy có xảy ra nữa, lễ và nghĩa cũng vừa là một tiêu chuẩn lý tưởng, vừa là những biện pháp mầu nhiệm để giải quyết mọi khó khăn. Đứng trước sự khiếm khuyết của cổ luật Việt Nam, nhà lập pháp hiện đại, trong lĩnh vực nghĩa vụ và khế ước, đã mượn hầu hết sự quy định của Tây phương. Hai bộ Dân luật Bắc và Dân luật Trung đã gần như thừa nhận nguyên văn bộ Dân luật của Pháp. Ở Nam phần, tuy Bộ dân luật giản yếu 1883 không quy định các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ và khế ước, nhưng các tòa án cũng thường áp dụng bộ Dân luật của Pháp như lý trí thành văn.
Nhận xét như vậy, không phải là chấp nhận dễ dàng một quan niệm quá đơn giản về vấn đề này và chủ trương rằng tất cả pháp chế củ Tây phương có thể chuyển di một cách máy móc vào trong khuôn khổ của Dân luật Việt Nam được. Nếu trong bộ Dân luật của Pháp, phần lớn các điều khoản đã chấp nhận một giải pháp hợp với lý trí và lẽ công bằng thì trái lại, cũng còn một số nhược điểm mà đáng lẽ các nhà soạn thảo ra hai bộ Dân luật Bắc (1931) và Dân luật Trung (1939) phải sáng suốt nhận định rõ để tránh được các sự sai lạc ấy.
Các nhược điểm này trước hết liên quan đến kỹ thuật pháp lý. Bộ luật Nã Phá Luân, nhiều khi vì chịu ảnh hưởng quá sâu xa của luật La Mã, đã chấp nhận một số ý niệm lỗi thời vố ích như ý niệm nguyên nhân của nghĩa vụ, sự cấm đoán cấu kết cho tha nhân, ý niệm chuẩn khế ước v.v… Một mặt khác, các điều kiện sinh hoạt kinh tế và xã hội đã thay đổi rất nhiều từ đầu thế kỷ 19, nhất là với sự cơ giới hóa trong kỹ nghệ. Do đó, trong nhiều địa hạt bộ Dân luật của Pháp, vì không thể tiên liệu được các sự biến chuyển quan trọng đặc biệt này, chỉ qui định những điều khoản quá đơn giản. Trong những trường hợp đó, án lệ đã thủ một vai trò quan trọng, nhiều khi đã vượt quá cả ý chí nguyên thủy của nhà lập pháp, như trong lĩnh vực trách nhiệm dân sự do tác động của các đồ vật vô tri gây ra. Song nhiều khi án lệ cũng còn phân tán và học lý vẫn chưa nhất định quyết theo đường nào.
Mặc dầu được soạn ra hơn một thế kỷ sau bộ Dân luật cảu Pháp, hai bộ Dân luật Bắc và Dân luật Trung, vẫn không tránh được hầu hết các khuyết điểm ấy. Hiện nay, vấn đề điển chế về nghĩa vụ và khế ước rất cần thiết để thống nhất nền luật pháp trong nước. Trên thực tế, vấn đề ấy cũng đã được đề cập đến trong giới luật gia và lập pháp. Về phương diện này, mặc dù chỉ là một khóa bản, quyền sách này, trong khuôn khổ khiêm nhường ấy, cũng ước mong góp được một vài ý kiến thô thiển đối với công cuộc lập pháp.
Saigon, ngày 25 tháng 7 năm 1962
VŨ VĂN MẪU
./.
Bình luận