Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

10. Sự vô hiệu của khế ước

SỰ VÔ HIỆU LỰC CỦA KHẾ ƯỚC 

Tiết 1: NGUYÊN DO VÀ HẬU QUẢ CỦA SỰ VÔ HIỆU LỰC

ĐOẠN I: KHẾ ƯỚC VÔ HIỆU (Nullité des contrats: Hợp đồng vô hiệu)

I_ Định nghĩa: Có hai thứ vô hiệu: Vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối.
1_ Vô hiệu tuyệt đối: Theo một số luật gia, sự vô hiệu có tính cách tuyệt đối khi nào một trong những yếu tố cần thiết để kết lập thiếu hẳn. Thí dụ: thiếu sự ưng thuận, thiếu đối tượng, thiếu duyên cớ v.v…
2_ Vô hiệu tương đối: Vô hiệu có tính cách tương đối khi nào một trong những yếu tố đó bị hà tỳ. theo chúng tôi có lẽ sự phân biệt này không hợp lý vì một đối tượng hoặc một duyên cớ nghịch lại với luật pháp là một hà tì của hai yếu tố đó, nhưng khế ước lại bị coi vô hiệu một cách tuyệt đối. Vì vậy phải tìm mục đích của sự chế tài vô hiệu để phân loại vô hiệu. Nếu mục đích là để bảo vệ quyền lợi tư nhân thì sự vô hiệu là tương đối. Trái lại, nếu người ta đặt ra sự vô hiệu để bảo vệ quyền lợi công cộng thời sự vô hiệu là tương đối. Thí dụ: Về sự ưng thuận, người ta đồng thanh cho rằng những hà tì của sự ưng thuận như lầm lẫn, lừa gạt hay bạo hành nhằm mục đích bảo vệ người kết ước, như vậy chỉ có người bị thiệt mới xin tiêu hủy khế ước. Sự vô hiệu ở đây có tính cách tương đối. Về đối tượng, nếu không có đối tượng, thiếu hẳn, thì đó là một trường hợp vô hiệu tuyệt đối và đối tượng nghịch với luật pháp cũng khiến cho khế ước vô hiệu tuyệt đối. Về duyên cớ, nếu duyên cớ phi pháp hoặc duyên cớ của khế ước nghịch với phần thuần phong mỹ tục thì khế ước vô hiệu tuyệt đối. Sau khi định nghĩa thế nào là tương và tuyệt đối, thử hỏi ai có quyền nại ra sự vô hiệu của khế ước.

II_ Ai có quyền nêu sự vô hiệu của khế ước (Personne qui peut invoquer la nullité)
1_ Sự xin hủy khế ước:
– Nếu sự vô hiệu là tương đối thì chỉ có người nào mà luật pháp muốn bảo vệ mới có quyền nại ra . Ví dụ người mà sự ưng thuận bị hà tì hoặc là những vị thành niên, khi y đã trưởng thành. Người thay mặt vị thành niên cũng co thể nại ra sự vô hiệu để xin tiêu hủy khế ước như người giám hộ của y chẳng hạn.
_ Nếu vô hiệu tuyệt đối thì bất cứ ai cũng có quyền nại ra. Trước hết là những người kết ước, những người đại diện của họ trước pháp luật, những người thừa kế của họ, những người chủ nợ, những người trái chủ v.v… Khi tòa án thụ lý một vụ kiện, trong đó người ta nại ra một sự vô hiệu tuyệt đối thì vị thẩm phán tự nhiên phải nêu ra, công tố viện cũng có thể đứng bên cạnh đương sự để xin tiêu hủy khế ước, khi nhận thấy trường hợp vô hiệu tuyệt đối, hoặc giả khi nào trật tự công cộng bị xâm phạm vì có một sự vô hiệu tuyệt đối. Khi một khế ước vô hiệu, người ta có thể xác nhận nó hay không? Trả lời: Tùy trường hợp.
2_ Điều kiện để xác nhận khế ước vô hiệu thành hữu hiệu.
a) Muốn xác nhận, trước hết phải là một sự vô hiệu tương đối, chiếu điều 856 DLB sự vô hiệu tuyệt đối không thể xác nhận được.
b) Điều kiện thứ nhì để xác nhận là hà tì của khế ước phải chấm dứt; Ví dụ: Một vị thành niên, muốn xác nhận một khế ước nó đã kết lập thì lúc xác nhận nó phải trưởng thành rồi, nghĩa là đúng 21 tuổi. Khi có sự bạo hành, muốn xác nhận khế ước kết lập dưới ảnh hưởng của sự bạo hành thì sự bạo hành này phải không còn nữa.
c) Điều kiện thứ ba, là người xác nhận một khế ước vô hiệu phải hành động sáng suốt, hiểu rõ tại sao khế ước của y phải bị vô hiệu và muốn cho khế ước củ mình có hiệu lực. Sự xác nhận có thể công nhiên, nghĩa là, phải bày tỏ rõ rệt ý muốn của mình.
3_ Hậu quả của sự xác nhận:
a) Sự xác nhận có thể mặc nhiên theo điều 1338 DLP, 931 DLT, 883 DLVN 1972, 855 DLB thì sự tự ý thi hành nghĩa vụ có thể xem như đã xác nhận khế ước bị vô hiệu. Thí dụ: Một vị thành niên đã bán một bất động sản, một kiến trúc của y lúc mới 20 tuổi, khế ước không được thi hành cho đến khi y trưởng thành, rồi y giao nhà, y thi hành nghĩa vụ được coi như đã mặc nhiên xác nhận khế ước vô hiệu (vì đã kết lập do một vị thành niên).
b) Sự xác nhận có hiệu lực hồi tố, khế ước được coi như đầy đủ giá trị từ lúc mới được kết lập với điều kiện là không đụng chạm đến quyền lợi của người đệ tam. Điều này đượcnói một cách rõ rệt ở điều 929 DLT.
Thí dụ: Một vị thành niên kết lập một khế ước để đương môt bất động sản của y, nghĩa là khế ước cầm cố bất động sản để lấy tiền. Lẽ cố nhiên y không có quyền kết lập khế ước đó. Khi trưởng thành y lại bán bất động sản ấy cho một người khác, tất nhiên khế ước thứ nhì này (bán bất động sản lúc y đủ 21 tuổi) có giá tr5i và sau khi bán y không thể xác nhận khế ước để đương mà y đã kết lập lúc chưa đúng 21 tuổi, bởi nếu xác nhận khế ước để đương đó được thì sự xác nhận này có hiệu lực hồi tố (nghĩa là khế ước để đương có hiệu lực từ ngày kết lập) như thế đụng chạm đến quyền lợi của người đệ tam là người mua bất động sản khi vị thành niên đã đúng 21 tuổi.

ĐOẠN II: HẬU QUẢ SỰ VÔ HIỆU CỦA  KHẾ ƯỚC 

Dù là tương đối hay tuyệt đối, khế ước vô hiệu bị coi như không có giá trị với hiệu lực hồi tố. Người ta xem khế ước đó như không bao giờ được kết lập và những người cộng ước sẽ ở trong tình trạng trước khi đã giao kết với nhau. Nhưng khi khế ước bị tuyên bố vô hiệu thì các hậu quả đối với các người cộng ước hay đệ tam ra sao?

I_ Đối với những người cộng ước:

1) Giữa những người cộng ước thì không người nào có quyền đòi hỏi người đối ước của mình phải thi hành một nghĩa vụ và nếu như đã thi hành rồi thì có quyền xin phản hoàn. Thí dụ: Như đã trả tiền một món đồ vật, thì có quyền xin đòi người bán phải trả món tiền đó lại, nhưng có điều đáng chú ý sau đây:
a) Có khi chỉ một phần của khế ước là bị vô hiệu mà thôi, chứ tất cả khế ước không bị coi như không có giá trị. Theo Điều 954 DLT, điều này lập lại điều 900 DLP, thì khi khế ước tặng dữ có kèm thêm một điều kiện phụ trái mà điều kiện này là phi pháp hay nghịch lại với luân thường thì chỉ có điều kiện phụ trái đó bị vô hiệu mà thôi còn sự tặng dữ vẫn có giá trị. Hay nói một cách khác, theo điều 900 này, khi người đó phải làm một công việc gì mà điều kiện phụ trái đó lại nghịch với luật pháp thì người ta chỉ bỏ điều kiện đó thôi. Khế ước tặng dữ vẫn còn nguyên giá trị và người thụ tặng vẫn có quyền giữ các của người ta tặng cho mình.
b) Quan điểm của án lệ: Nhưng, như đã biết các Tòa án một đôi khi không phân biệt duyên cớ và lý do và nếu thấy rằng lý do đó là điều kiện chính yếu cho sự tặng dữ, nghĩa là không thi hành điều kiện đó thì người tặng của không bao giờ chịu kết ước, thì coi lý do đó như là nguyên cớ và nếu lý do đó bất hợp pháp thì coi duyên cớ bất hợp pháp và tất cả khế ước bị coi như không có giá trị.Đó là thái độ của án lệ về điểm này. Sở dĩ án lệ đã xử như vậy là thừa dịp những sự tặng của cho các đoàn thể tôn giáo mà điều kiện phụ trái lại nghịch với luật pháp hoặc nếu không nghịch với luật pháp thì nghịch lại với thuần phong mỹ tục, nghịch lại với xu hướng chính trị của Pháp thời bấy giờ. Một người tặng của cho đoàn thể tôn giáo buộc phải thi hành cho y một nghĩa vụ gì đó mà nghĩa vụ đó trái với luật pháp thời bấy giờ. Ví dụ: Bên Pháp đạo luật 1905 tách biệt tôn giáo không được làm một số hành vi mà chánh quyền cho rằng có thể phương hại đến uy tín của chánh quyền, phương hại đến trật tự công cộng. Và nếu có những người đã tặng của rồi, đoàn thể tôn giáo đã nhận các của đó rồi nhưng điều kiện phụ trái lại phi pháp do sự xuất hiện của một đạo luật thì chiếu điều 900 DLP, 954 DLT chỉ có điều kiện đó là vô giá trị, còn khế ước tặng dữ là có giá trị. Thành thử đoàn thể tôn giáo được quyền nhận của nhưng khỏi phải thi hành nghĩa vụ mà người tặng bắt phải thi hành. Bởi vậy cho nên án lệ thời bấy giờ muốn cho đoàn thể tôn giáo hoàn lại cho những người tặng của hay những người thừa kế của họ, nếu như không thi hành điều kiện phụ trái. Án lệ nói rằng điều kiện đó là chánh yếu của khế ước tặng dữ, phụ trái, nghĩa là không có điều kiện đó thì khế ước không được kết lập. Trong trường hợp đó, Tòa án Pháp lúc bấy giờ xử rằng tất cả khế ước bị vô hiệu chớ không riêng gì điều kiện phụ trái bị vô hiệu. Đốivới những khế ước hữu thường, thì sự vô hiệu của một điều kiện khến cho tất cả khế ước không có giá trị chiếu điều 1172 DLP nhưng theo các tòa án thì điều kiện này phải là duyên cớ của khế ước nếu có thể tách biệt đeì6u kiện đó với khế ước, nghĩa là nếu không có điều kiện này, đương sự vẫn kết lập thì chỉ có điều kiện đó bị tiêu hủy mà thôi.

2. Trường hợp không thể hủy bỏ những hậu quả của khế ước đã thành tựu:
Điểm thứ hai đáng chú ý là có khi không thể nào hủy bỏ những hậu quả đã thành tựu mà một hành vi bị vô hiệu, đó là trường hợp của những khế ước liên tục. Ví dụ khế ước cho thuê công, khế ước cho thuê đồ vật, khế ước công ty. Trong trường hợp này phải tính toán, phải thanh toán sự  kiện người thuê đã xử dụng vật cho thuê một thời gian, phải bắt buộc y phải trả tiền thuê hoặc giả thanh toán hoạt động của công ty từ ngày thành lập cho tới ngày bị tuyên bố vô hiệu.(…).
3) Có những trường hợp hậu quả của sự vô hiệu bị những nguyên tắc luật pháp thu hẹp:
a) Thí dụ: Những người bị thiệt hại thừa dịp một khế ước bị tuyên bố vô hiệu, mà những người này lại có thiện ý thì họ có quyền giữ lại những hoa lợi đã thu hoạch có khi lại được đòi người đối ước trả thiệt hại, nếu như sự vô hiệu khế ước xảy ra do lỗi của người này.
b) Theo điều 1312 DLP, khi người vị thành niên xin tiêu hủy một khế ước vì đã kết lập trong lúc vô năng lực, nó khỏi hoàn lại những đồ vật hoặc những món tiền mà nó đã thu, đã lấy, trừ khi nào đối ước dẫn chứng được rằng những số tiền ấy đã làm lợi cho nó.
c) Người xin tiêu hủy một khế ước vì lý do nghịch lại với thuần phong mỹ tục, có khi không thể ra tòa án, để đòi người ta phải trả lại những gì mà y đã giao cho cộng ước để thi hành nghãi vụ của y theo câu tục giao la tinh; “Nemo auditur propriam turpitudinem allegans”, nghĩa là không ai có quyền nại những hành động phi pháp của mình ra mà đòi lại một vật gì.
Đó là những hậu quả của vô hiệu của khế ước đối với những người kết lập.

II. Đối với người đệ tam: 

Người đệ tam ở đây có nghĩa là những người kế quyền của những người kết ước, họ cũng phải chịu ảnh hưởng của sự vô hiệu và chịu ảnh hưởng một cách hồi tố. Thí dụ: Khế ước mua bán động sản chẳng hạn. Một động sản được người thứ nhứt bán cho người thứ hai mà khế ước đó bị vô hiệu; động sản này được người thứ hai bán cho người thứ ba, người thứ ba là kế quyền của người mua, nếu khế ước bán động sản đầu tiên vô hiệu thì sự vô hiệu này cũng có ảnh hưởng đối với người thứ ba đã mua lại động sản đó và vô hiệu ảnh hưởng một cách hồi tố, nghĩa là khế ước bán thứ nhì kể như không có giá trị. Đó là nguyên tắc chung, nhưng có những biệt lệ sau đây:
Biệt lệ 1: Về bất động sản:
a) Đối với bất động sản ngoài nguyên tắc chánh yếu về sự đồng thuận, về giá cả và về đối tượng khiến cho khế ước thành tựu, luật lệ còn bắt buộc một điều kiện thứ ba là điều kiện về bố cáo để cho khế ước đó có thể đối kháng với người đệ tam và sự bố cáo này là sự ghi chú khế ước đoạn mại bất động sản vào sổ địa bộ hoặc sổ điền thổ.
b) Nếu ví dụ một bất động sản đã được sở hữu chủ bán cho người thứ nhất, người này bán cho người thứ nhì và người thứ nhì kỹ lưỡng đem ghi chú khế ước mua bán bất động sản cảu y tại Sở Quản Thủ Điền Thổ, như thế là y làm đủ những thể thức luật lệ đã ấn định về sự mua bán bất động sản. Nếu khế ước mua bán bất động sản thứ nhất bị vô hiệu, sự vô hiệu này xảy ra sau khi người thủ đắc thứ nhì đã ghi chu khế ước mua của y tại Sở Quản Thủ Điền Thổ rồi, nên sự vô hiệu của khế ước đoạn mại bất động sản lần thứ nhất không có ảnh hưởng đến khế ước lần thứ hai. Người thủ đắc lần thứ hai là người  kết quyền của người thủ đắc thứ nhất, không bị ảnh hưởng của sự vô hiệu của khế ước thứ nhất, nghĩa là y vẫn mua bất động sản y đã ghi chú, khế ước mua bất động sản của y có hiệu lực.
Biệt lệ 2: Đối với người có thiện ý
a) Đối với người đệ tam có thiện ý thì những hành vi quản trị của y mà những người bên ngoài ai ai cũng cho là sở hữu chủ thì về sau này, b5i mất quyền đó, vì khế ước bị tiêu hủy, đều được coi như có giá trị. Ví dụ một người qua đời để lại một di sản, tôi là cháu rất xa của người đó, theo sự hiểu biết của xóm giềng , của chánh quyền thì người để lại di sản, bác tôi chẳng hạn, không có một người thừa kế nào gần hơn, và tôi là một người cháu xa, trật thứ tư, thứ năm chẳng hạn, tôi là người thừa kế biểu kiến, là người sở hữu chủ biểu kiến, bên ngoài ai ai cũng cho tôi là sở hữu chủ. Tôi kết lập bán khế ước bất động sản đó cho người khác, người mua này là người có thiện ý, sau khi y mua của tôi rồi có thể y làm những hành vi quản trị, ví dụ y cho mướn những bất động sản trong vòng 3 năm, y thu hoạch hoa lợi, y trả những món nợ, y thâu những món nợ người ta thiếu, đó toàn là những hành vi quản trị của người thủ đắc có thiện ý. Nếu sau này bỗng dưng có người xuất hiện đưa một cái giấy nhìn nhận đó là con rơi chẳng hạn, con tư sinh được thừa nhận của người để lại di sản, thì y hưởng di sản chứ tôi không có quyền hưởng nữa. Khế ước mà tôi kết lập với người mua bất động sản đó tức nhiên vô hiệu bởi tôi không phải là sở hữu chủ, mà sự vô hiệu này không có ảnh hưởng đến hành vi quản trị của người thủ đắc bất động sản của tôi vì y có thiện ý, người ta sẽ duy trì những hành vi của y có trước khi khế ước bị tiêu hủy. (…).
b) Đối với trái chủ của một công ty vô danh đã lập ước ngay tình với công ty, dầu cho công ty bị vô hiệu vì vi phạm vào điều kiện thành lập và vì không có bố cáo hợp lệ, các hội viên của công ty cũng không thể nại sự vô hiệu nầy để từ chối thanh toán các món nợ thiếu các trái chủ của công ty. Họ là những người đệ tam có thiện ý (điều 7 và 58 thương luật ngày 24-7-1867)
Đó là những trường hợp khế ước vô hiệu và hậu quả của khế ước vô hiệu. Hậu quả giữa những người  kết lập và hậu quả đối với người đệ tam.

Tiết 2: SỰ TIÊU DIỆT THỜI HIỆU TỐ QUYỀN XIN TIÊU HỦY KHẾ ƯỚC VÔ HIỆU 

I. Phạm vi áp dụng điều 1304 DLP về thời hạn tiêu diệt:

Theo điều 1304 DLP, khi nào không có một đạo luật thu hẹp thời gian thì tố quyền xin tiêu hủy khế ước hoặc xin bãi tiêu một hợp đồng sẽ bị tiêu diệt sau 10 năm. Điều 878 DLVN 1972 chỉ nói đến quyền xin bãi tiêu một khế ước và định rằng quyền này chỉ hành xử trong thời hạn 5 năm.
1) Do đâu có điều 1.304 này? 
Để trả lời, phải xét định chế thời hiệu về phương diện lịch sử. Điều 1304 nói đến hai tố quyền xin tiêu hủy (action en nullité: hành động vô hiệu) và tố quyền xin bãi tiêu (action en rescision: hành động bãi bỏ). Vậy cần phân biệt hai tố quyền này. Về phương diện lịch sử theo luật cổ điển của Pháp quốc, muốn hủy bỏ một hợp đồng có thể sử dụng hai loại tố quyền, nghĩa là có hai quyền để đi kiện: Tố quyền tiêu hủy (action en nullité) khi do một văn kiện luật pháp cho phép, ví dụ có một đạo luật hay có phong tục được công bố một cách hợp pháp. Còn tố quyền xin bãi tiêu (action en rescision), tuy dùng một danh từ khác, nhưng sự thật cũng là tố quyền xin tiêu hủy nhưng do án lệ cho phép hay do tục lệ hay là do luật La Mã nhìn nhận.
Trong luật cổ điển của Pháp, ta có thể trưc tiếp sử dụng tố quyền xin tiêu hủy trước tòa án. Trái lại nếu muốn xin bãi tiêu một hợp đồng thì trước khi khởi kiện phải được phòng Chưởng ấn của Hoàng gia, dưới hình thức một văn thư cho phép bãi tiêu (lettre de rescision: thư hủy bỏ). Nếu muốn xin tiêu hủy, theo luật cổ điển của Pháp quốc, thì tố quyền xin tiêu hủy này bị tiêu diệt sau một hạn là 30 năm. Còn muốn xin bãi tiêu thì tố quyền bị tiêu diệt sau 10 năm kể từ ngày lập ước bởi vì tố quyền này là một đặc ân cảu Vua; và Vua muốn hạn chế cái đặc ân đó. Cách mạng Pháp quốc đã bỏ phòng Chưởng ấn của Hoàng triều Pháp và sáp nhập hai tố quyền lại làm một, hai tố quyền này bị tiêu diệt thời hiệu sau là 10 năm, mục đích là khỏi kéo dài một tình trạng hoang mang. Hiện nay trước tòa án, hai danh từ tiêu hủy và bãi tiêu đồng nghĩa. Người ta chỉ dùng danh từ thứ nhì, bãi tiêu khi nào đương sự muốn xin tiêu hủy một khế ước căn cứ vào sự thiệt thòi của người đương sự bị thiệt thòi.
2) Phạm vi áp dụng điều 1304:
Điều 1.304 là một ngoại lệ đối với luật phổ thông, cho nên phải giải thích điều luật này và áp dụng nó một cách chặt chẽ. Không thể áp dụng điều 1304 trước hết đối đối với tố quyền xin phế bãi một hợp đồng theo điều 1167, nghĩa là xin cho khế ước bị tiêu hủy đối với người đệ tam vì có sự a tòng giữa đôi bên kết ước để gây thiệt hại cho người đệ tam, cũng không thể áp dụng 9die62u khoản này đối với tố quyền thu hồi của trả bất phụ trái theo điều 1377 DLP. Điều 1034 chí nói đến tố quyền xin tiêu hủy hợp đồgn cũng không thể áp dụng nói đối với những hành vi đơn phương ví dụ đối với việc lập di chúc. Điều 1304 này được đặt trong chương nói về tài sản pháp cho nên không thể áp dụng nói đối với những tố quyền xin thủ tiêu liên quan đến luật gia đình như: cưới hỏi, nghĩa dưỡng, nhìn nhận con tư sinh v.v… Theo điều 1676 đoạn 1 DLP, tố quyền xin bãi tiêu khi bán một bất độgn sản mà bị thiệt thòi quá 7/12 thì tố quyền này bị tiêu diệt sau thời hạn là 2 năm kể từ ngày bán, chứ không pah3i 10 năm như tố quyền xin bãi tiêu khế ước của điều 1304 DLP và điều 878 DLVN 1972.
3) Nền tảng của tố quyền: Người ta cho rằng nền tảng của thời hiệu tiêu diệt 10 năm trre6n đây là có một sự ước đoán rằng các người quan thiết đã xác nhận hợp đồng vô hiệu, nếu như người có quyền suy luận rằng họ đã công nhận khế ước mà họ biết rằng vô hiệu. Đó là sự giải thích điều 1.304 của học thuyết và của án lệ. Sự giải thích này được phê bình trong bản án Tòa Thượng thẩm (…) có bài phê bình của ông Lalou.
4) Giới hạn áp dụng điều 1.304:
Dầu sao cũng không thể áp dụng điều 1304 này đối với tố quyền xin tiêu hủy khế ước bị vô hiệu tuyệt đối, ví dụ không thể áp dụng điều 1304 này đối với những khai vị thừa kế khế ước hoặc đối với những khế ước tặng dữ, được kết lập không đúng với hình thức luật pháp đã ấn định như lập bởi chưởng khế. Tố quyền xin thủ tiêu khế ước này được hành xử trong thời hạn 30 năm kể từ ngày lập ước.(…).

II_ Thời hạn tiêu diệt của điều 1304 bắt đầu lúc nào (Point de départ du délai: Điểm bắt đầu của thời hạn)

Vì chúng ta cho rằng nền tảng của thời hiệu này là một ước đoán rằng những người quan thiết công chận khế ước vô hiệu cho nên thời hạn bắt đầu từ ngày những người đó có thể xin tiêu hủy khế ước được, bởi vì chỉ bắt đầu từ ngày đó, người ta mới có thể xem sự im lặng như là ý muốn xác nhận. Thường thường ngày đó là ngày kết ước, nhưng cũng có những biệt lệ sau đây:
1) Tố quyền xin tiêu hủy khế ước mà sự ưng thuận bị hà tì, bị tiêu diệt bắt đầu từ ngày mà sự bạo hành không còn nữa, sự lừa gạt hay sự lầm lẫn thì kể từ ngày sự lừa gạt, sự lầm lẫn bị khám phá.
2) Trong trường hợp người vô năng lực chấm dứt. Đối với vị thành niên thì ngày khởi đầu là ngày y được 21 tuổi. Theo luật lệ hiện hành, bắt đầu từ ngày này người ta mới có thể cho rằng đương sự trưởng thành để xin thủ tiêu hoặc công nhận khế ước vô hiệu y đã kết lập lúc còn ở trong tình trạng vị thành niên.
3) Đồi với những người bị mắc bịnh điên khùng, và bị án tư pháp cấm quyền, thời hiệu bắt đầu từ  ngày có bản án chấm dứt tình trạng tư pháp cấm quyền đó (1304 khoản 3);
4) Đối với những người điên khùng không bị tư pháp cấm quyền, nhưng bị câu lưu nơi một nhà dưỡng trí thì thời hiệu bắt đầu từ ngày y hay biết được y đã ký kết hợp đồng để xin bãi tiêu hợp đồng. Giải pháp này hợp lý hơn giải pháp ở đoạn 3 vì khi hết bị tư pháp cấm quyền, các người điên nói ở đoạn 3 chưa ắt nhớ những khế ước mà y đã ký trong lúc bị cấm quyền, vậy rất bât công để cho thời han tiêu diệt khởi đầu trước khi y nhớ lại những khế ước vi lệ mà y đã kết lập trong thời kỳ điên khùng.
5) Đối với những người lãng trí hay yếu trí có môt quản tài tư pháp, thời hiệu bắt đầu từ ngày tình trạng vô năng lực không còn nữa để kiện xin thủ tiêu khế ước y đã ký mà không có sự hỗ trợ của quản tài (…).
Một điều khó khăn là khi chúng ta phải dung hòa hai sự tiêu ide65t thời hiệu của luật phồ thông là 30 năm, và của điều 1304 là 10 năm. Các tác giả cho ví dụ đã khám phá một sự  lừa gạt 25 năm sau khi kết ước, nếu áp dụng điều 1304 thì tố quyền xin thủ tiêu khế ước bị tiêu diệt 10 năm sau khi đã khám phá sự lừa gạt, nghĩa là 35 năm sau khi kết ước, trong lúc đó thời hiệu tối đa theo luật phổ thông chỉ có 30 năm. Người ta tự hỏi có nên áp dụng điều 1304 hay không? Nghĩa là trong ví dụ trên, chúng ta có nên kéo dài thời hiệu tối đa của luật phổ thông thêm 5 năm nữa không? Các tòa xử không. (…).
Thời hiệu tối đa của điều 1304 DLP trong trường hợp này không thể lấn át thời hiệu của luật phổ thông vì có lợi cho một khế ước vô hiệu được xác nhận sớm chùng nào hay chừng nấy. Nhưng hiện nay học thuyết đã cho rằng nếu không áp dụng điều 1304 thì rất bất công. Ví dụ: Một sự bạo hành bị khám phá sau 30 năm thì không thể nào xin thủ tiêu hợp đồng được, bởi tố quyền xin tiêu hủy đã bị tiêu diệt trước khi người ta khám phá ra sự bạo hành rồi. Nhưng trong thực tế  không có một bạo hành nào bị khám phá sau 30 năm.

III._ Hậu quả của sự tiêu diệt thời hiệu:
Hậu quả của sự tiêu diệt thời hiệu của tố quyền xin tiêu hủy các hợp đồng là sau 10 năm đương sự không có quyền xin khởi tố để xin hủy bỏ khế ước. Nhưng nếu đương sự mất quyền khởi tố, đương sự có thể bị mất luôn quyền kháng biện vô hiệu hay không? (Kháng biện là khi bị đơn đứng ra bảo vệ cho rằng khế ước ấy vô hiệu). Ví dụ: Trong một  khế ước, bên phụ trái đã bị lừa gạt khi cam kết. Quyền của trái chủ đòi thi hành khế ước có thể hành xử tố quyền trong vòng 3 năm. Nhưng người trái chủ đã để quá 10 năm từ khi sự lừa gạt bị phát giác để đòi thi hành khế ước. Trong trường hợp này dĩ nhiên tố quyền bãi tiêu khế ước không còn nữa vì đã quá 10 năm, nhưng người phụ trái có thể nào, nhân khi chủ nợ đòi thi hành khế ước, kháng biện khế ước đó vô hiệu vì y đã bị lừa gạt hay không? Học thuyết cho rằng y mất luôn quyền kháng biện ấy. Nhưng tòa án không đồng ý. Mặc dù thời hạn 10 năm d94 qua, bị đơn vẫn có thể nêu ra kháng biện khế ước vô hiệu để bào chữa cho mình, nếu chủ nợ kiện y đòi thi hành lần đầu tiên. (…).
Hình như quan niệm này hợp lý vì điều 1304 chỉ nói đến tố quyền xin thủ tiêu khế ước thôi chứ không nói đến quyền kháng biện (exception). Vậy quyền kháng biện phải còn. Vì trong nhiều trường hợp sự im lặng của chủ nợ không đòi thi hành khế ước, không có nghĩa là đã chấp nhận sự vô hiệu của khế ước. Đó là trường hợp người chủ nợ chết sau khi ký khế ước và quyền thừa kế đươc di chuyển cho con cái của y. Các thừa kế nầy không hay biết khế ước ký lúc cha mình còn sống để xin thi hành. Hoặc giả người ký kết khế ước có thể là con nợ. Sau khi y chết, chủ nợ có thể đòi các thừa kế của y thi hành khế ước. Nếu cấm các thừa kế này sử dụng quyền kháng biện sự vô hiệu của khế ước thì không công bình vì họ có thể không hay biết rằng cha họ đã cam kết khi còn sanh tiền. Đó là quan niệm cảu bản án Cass civ 21.6.1880 nói trên và bản án (…)./.

 

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Nam Lua

Nam Lua

Bình luận

avatar