Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

11. Những đặc tính của hội hợp danh (1389-1349)

NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA HỘI HỢP DANH  

1389._ Định nghĩa: Công ty hợp danh được điều 20 TMP định nghĩa là một hội đoàn thành lập giữa hai người, hay một số người nhiều hơn, để làm thương mại dưới một hội danh. Trên nguyên tắc, nhà làm luật không có nhiệm vụ phải nêu ra những định nghĩa khi làm luật, nhưng sự định nghĩa trên đây vừa  không thích hợp cho hội hợp danh, vừa không nêu ra đầy đủ những yếu tố của hội hợp danh. Theo định nghĩa trên thì dường như chỉ có công ty hợp danh là làm thương mại dưới một hội danh, nhưng thực ra, còn có những công ty khác, như công ty hợp danh tư đơn thường cũng dùng một hội danh để hoạt động. Sự định nghĩa của điều 20 làm cho ta tưởng rằng công ty hợp danh chỉ có một đặc tính là công ty có một hội danh nhưng, kỳ thực, đặc tính quan y61u nhất của hội hợp danh là trách nhiệm vô hạn định và liên đới của các người trong hội.
1330._ Điều 42 TMTP định nghĩa hội hợp danh, một cách xác thực hơn, là một hội hoạt động dưới một hội danh, trong đó, tất cả các hội viên đều phải chịu trách nhiệm liên đới, vô giới hạn, trên sản nghiệp của mình, về nợ của hội. Điều 171 LTM 1972 cũng định nghĩa hội hợp danh một cách tương tự.
1331. Hội hợp danh có 4 đặc tính:
Đặc tính thứ nhất là một đặc tính chung cho tất cả các công ty đối nhân: Mỗi hội viên có một phần trong hội (có thể đồng đều hay khác nhau), nhưng phần này, theo ngôn ngữ luật lý, không gọi là cổ phần mà gọi là phần lợi. Danh từ này cũng được dùng để chỉ phần hội của hội viên xuất tư (hay cấp vốn) và hội viên thụ tư (là hội viên được cấp vốn), trong công ty hợp tư đơn thường. Danh từ phần lợi cũng được dùng để chỉ riêng phần hội của những hội viên thụ tư trong công ty hợp tư cổ phần. Dù trong hội nào, phần lợi cũng có đặc tính là không được tự do di nhượng bằng khế ước và cũng không được di truyền được cho thừa kế (1332 và kế tiếp).
Đặc tính thứ hai của hội hợp danh là hoạt động dưới một hội danh. Nói cách khác, hội được đặt tên, cũng như người ta có tên họ để phân biệt người này với người khác. Nhưng không phải là chỉ công ty hợp danh mới có hội danh. Các công ty TNHH, hợp tư đơn thường, hợp tư cổ phần cũng có hội danh. Vậy khi ta thấy một công ty thương mại hoạt động với một hội danh, ta đừng vội cho rằng đó là một hội hợp danh. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì hội nào cũng có một cái tên, tức là hội danh. Thực tế, ở Việt Nam, chữ hội danh được dùng và được hiểu theo nghĩa rộng ấy. Nhưng luật pháp phân biệt hội danh với thương danh, vật danh, bảng hiệu, như dưới đây ta sẽ thấy rõ (1236 và kế tiếp).
– Đặc tính thứ ba là tất cả các hội viên đều có tư cách thương gia; Do đó, một vị thành nei6n chỉ có thể là một hội viên như một hội hợp danh nếu đã được người thoát quyền và được phép làm thương mại. Trong các hội hợp tư, hợp tư đơn thường và hợp tư cổ phần, các hội viên thụ tư cũng đều có tư cách thương gia như vậy, nhưng các hội viên xuất tư thì không có tư cách thương gia.
– Đặc tính thứ tư là tất cả các hội viên đều phải chịu trách nhiệm bản thân, liên đới và vô giới hạn về công nợ, về các sự cam kết của hội. Trong các hội hợp tư, những hội viên thụ tư, có tư cách thương gia, cũng phải chịu trách nhiệm như vậy, chỉ riêng các hội viên xuất tư là không có tư cách thương gia và chỉ phải chịu trách nhiệm tới mức số vốn mà mình đã cung cấp cho hội. Có thể nói rằng, hội hợp danh là hội thương mại điển hình bên cạnh pháp nhân là hội được thiết lập, tất cả các hội viên, một khi vào hội, đều là thương gia và đem cả tài sản của mình ra để chịu trách nhiệm về công việc của hội. Ta sẽ lần lượt xét 4 đặc tính trên này của công ty hợp danh.

I. PHẦN LỢI CỦA HỘI VIÊN 
1332._ Nguyên tắc: Trong hội hợp danh, nguyên tắc là hội viên, khi sinh thời, không đem phần lợi của mình trong hội di nhượng được cho ngườ khác, và khi mệnh một, phần lợi cũng không di truyền được cho người thừa kế. Việc lập hội, trong công ty hợp danh, cũng như mọi công ty đối nhân khác, căn cứ trước nhất, như ta đã nói nhiều lần, vào sự tin cẩn, quen biết giữa các hội viên. Những người này đồng tâm lập hội là vì họ biết rõ tình hình của nhau, biết rõ uy thế cá  nhân, và khả năng làm việc, khả năng tài chính của nhau, và do đó, mới có thể tin cậy lẫn nhau để lập hội. Nếu chấp nhận cho một người trong bọn họ có thể ra khỏi hội bằng cách đem nhượng phần lợi của mình cho người khác để người này trở thành hội viên, hậu quả sẽ là một người xa lạ được đem vào hội; các hội viên sẽ không biết người này xấu tốt thế nào, trong khi hành động của người này, với tư cách là hội viên, có thể làm cho họ phải chịu trách nhiệm rất nặng, một trách nhiệm bản thân liên đới, vô giới hạn, như trên đã nói. Cũng vì lý do ấy, nếu một hội viên mệnh một, phần lợi sẽ không di truyền cho người thừa kế. Hội sẽ không đương nhiên tiếp tục với người thừa kế của người đã bị mệnh một. Hội sẽ phải giải tán và được thanh toán; các quyền lợi, tiền bạc về phần người mệnh một sẽ trả cho người thừa kế với tính cách một di sản của người mệnh một mà thôi.
1333._ Nếu một hội viên tự tiện đem phần lợi của mình di nhượng cho người khác, sự di nhượng sẽ có hậu quả như thế nào? Sự di nhượng sẽ không đối kháng được với hội: người đắc nhượng (nói nôm na là người đã mua lại phần hùn của hội viên kia), sẽ không được trở thành hội viên trong hội. Dự di nhượng sẽ chỉ có hiệu lực riêng biệt giữa người bán và người mua, đó là việc riêng của họ, muốn xử sự với nhau thế nào về việc mua bán ấy, tùy ý, nhưng đối với hội, sự di nhượng ấy không có ảnh hưởng hoặc hậu quả gì cả. Hội viên muốn xin ra khỏi hội, chỉ có cách giải tán hội như đã nói trên, hoặc chờ đến ngày hội hết hạn (1298 và kế tiếp).
1334._ Ngoại lệ: Nguyên tắc trên, nếu đem áp dụng triệt để, có phần bất lợi cho hội, vì trong trường hợp hội viên bất đồng ý kiến, có sự xích mích, hội sẽ chỉ có thể chọn một trong hai con đường: Một là hội phải tan rã, hai là hội phải gắng gượng tiếp tục với sự hiện diện của một hội viên không đồng tâm, đồng chí và, dĩ nhiên, không còn sốt sắng với những công việc của hội. Bởi thế, thực hành đã đặt ra những ngoại lệ được án lệ chấp nhận. Khế ước lập hội thường có dự liệu những điều khoản riêng nhằm giải quyết tình trạng trên. Các điều khoản này được dự liệu theo nhiều phương thức:
a) Các hội viên có thể thỏa thuận là, khi một hội viên mệnh một, hội sẽ tiếp tục giữa các hội viên còn sống. Trong trường hợp này, hội sẽ được thanh toán (1313) tượng trưng, nghĩa là, thanh toán trên giấy tớ, để tính ra kỷ phần của người mệnh một: kỷ phần này sẽ hoàn lại cho các thừa kế của hội viên ấy.
b) Cá hội viên có thể thỏa thuận là hội sẽ tiếp tục với các người còn lại và luôn cả với các thừa kế của hội viên mệnh một. Trong trường hợp này, khê ước dự liệu hai phương thức: Hoặc là các thừa kế sẽ là hội viên, hoặc chỉ đóng vai người xuất vốn mà thôi.
c) Khế ước có thể cho phép hội viên được nhượng phần lợi của mình cho người khác một cách tự do, vô điều  kiện: _ hoặc với điều kiện phải có sự ưng thuận của toàn thể hay đa số hội viên khác; hoặc dành quyền tiên mãi cho các hội viên. Hội viên nào muốn bán phần lợi sẽ phải dạm bán cho những người đồng hội trước, nếu những người này không mua mới bán ra ngoài; hội viên cũng có thể dạm bán cho người ngoài trước, nhưng các đồng hội viên sẽ được quyền tiên mãi theo giá đề cung của người đệ tam.
Tất cả các điều khoản trên đều được coi là hợp lệ. Về việc di nhượng và di truyền phần lợi, điều 188 LTM 1972 định rằng, muốn chuyển nhượng hội phần của mình cho một hội viên khác hay cho một người ngoài, hội viên phải được chấp nhận của tất cả các hội viên kia, trừ phi hội có quy định khác. Theo Điều 191 LTM 1972: “Sự mệnh một của một hội viên là một lý do giải tán hội, ngoại trừ trường hợp hội quy có ấn định là hội tiếp tục hoạt động giữa những hội viên còn sống hay với sự gia nhập hội của các người thừa kế của hội viên mệnh một“.
1335._ Ngoài các ngoại lệ trên đây, mỗi hội viên đều có quyền kết hội với một người đệ tam về công việc của hội. Dĩ nhiên, sự kết hội này chỉ là việc riêng của hai người, không tạo ra liên lạc pháp lý gì giữa người đệ tam với hội; người đệ tam không có quyền kiện hội để chia tiền lãi, hội cũng không có quyền kiện người đệ tam để bổ thu tiền lỗ. Sự phân chia lãi lỗ là việc riêng của hai người đã ký kết ngoài phạm vi của hội: hai bên cứ chiếu khế ước giữa họ mà thi hành: Tương quan giữa họ được đặt dưới sự chi phối của phổ thông luật pháp.

II. HỘI DANH 
1336._ Hội danh là các tên đặt cho hội để phân biệt hội này với hội khác. Không phải chỉ hội hợp danh mới có hội danh, nhưng đặc biệt là cái tên công ty hợp danh phải đặt theo cách thức luật định. Hội danh này, theo điều 21 TMP, 43 TMTP, chỉ có thể gồm những tên của hội viên: thực tế, người ta lấy tên của một, hai hội viên ghép lại và ghi thêm những chữ và công ty, tiếp theo các tên ấy. Thí dụ: Nguyễn Văn A và Công ty (172 LTM 1972). Nếu có sự tranh chấp giữa các hội viên về việc lựa chọn hội viên nào được đứng tên chính, sự chỉ định sẽ do tòa án, căn cứ vào thâm niên và công lao của hội viên đối với hội (Lyon 16-7-1896. DP 1898.2.256).
1337._ Thể thức luật định cho công ty hợp danh là thể thức bắt buộc và thuộc trật tự công cộng: Một hội hợp tư không thể đem tên hội viên xuất tư ghi vào hội danh, vì như vậy, sẽ làm cho người đệ tam lầm tưởng rằng những người này cũng là hội viên có trách nhiệm vô hạn định. Lý do của thể thức luật định là làm cho người đệ tam cứ đọc hội danh là biết được hiện thời trong hội có người nào phải chịu trách nhiệm. Bởi thế, nếu một hội viên mệnh một mà hội còn tồn tại, thì tên hội viên bị mệnh một phải bị xóa bỏ trong hội danh; nếu hội tồn tại với sự gia nhập của người hóa phụ hoặc người thừa kế của người mệnh một thì cũng phải sửa lại hội danh cho đúng.
1338._ Ở Việt Na, quán lệ về giao dịch thương mại thường chỉ chú trọng đến bảng hiệu. Một cửa tiệm của một tư nhân, cũng như một hãng buôn, một hãng kỹ nghệ của công ty thương mại, thường chỉ được khách hàng biết đến và gọi tên bằng bảng hiệu, thí dụ hãng Nam Long, Hiệu Phúc Thịnh, Tín Thành v.v.. Nhưng bảng hiệu chỉ là cái tên được chọn vì là một danh từ đẹp như Nam Long, hoặc gợi lên ý nghĩa hạnh phúc thịnh vượng như Phúc Thịnh, hoặc đem phô bày đức tính của chủ tiệm để lấy tín nhiệm với khách hàng như Tín Thành. Bảng hiệu là thành tố của cửa hàng thương mại đương nhiên có quyền dùng luôn cả bảng hiệu của cửa hàng ấy. Nhưng về mặt pháp lý, chính hội danh mới là yếu tố chỉ định pháp nhân trước pháp luật.
1139. _ Hội danh còn phải phân biệt với thương danh là các tên được dùng để làm thương mại, Thí dụ Công ty Lúa Gạo Miền Tây. Thương danh cũng là một yếu tố của cửa hàng thương mại và được di nhượng cùng với cửa hàng thương mại, nhưng khác với bảng hiệu, sự di nhượng phải minh thị. _ Ở một vài nước, thương danh được coi như nhập liền với cửa hàng, không tách rời ra khỏi cửa hàng, phải bán luôn thương danh (Đức, Ý, Thụy Sĩ).
1340._ Hội danh còn phải phân biệt với vật danh (dénomination, raison de commerce: tên, tên thương mại), được dùng để chỉ mục tiêu của hội, cũng là một cái tên muốn đặt thế nào cũng được. Vật danh thường được dùng cho công ty nặc danh thí dụ: “Công ty nặc danh chuyên chở đường sông và đường bộ“._ Nhưng công ty hợp danh cũng có thể dùng một vật danh như vậy.
Kết lại, một công ty hợp danh bắt buộc phải có hội danh, nhưng cũng có thể có một bảng hiệu, một thương danh, và một vật danh.

III. TƯ CÁCH VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI VIÊN
1341Tư cách: Tất cả các hội viên trong công ty hợp danh đều có tư cách theo luật định là thương gia. Bởi thế, vị thành niên muốn gia nhập một công ty hợp danh phải đã được thoát quyền và được phép làm thương mại. Vì có tư cách thương gia, nên mỗi hội viên đều phải ghi tên vào sổ thương mại và công bố hôn ước của mình. Hội viên cũng không được làm nghề gì kiêm nhiệm với nghề thương gia. Nếu hội bị tuyên bố khánh tận tì mỗi hội viên cũng đương nhiên bị tuyên bố khánh tận. Sở dĩ như vậy là vì các hội viên đều phải chịu trách nhiệm liên đới, vô giới hạn về công việc của hội, do đó, mặc dù hội là một pháp nhân biệt lập, trách nhiệm của hội được hỗn đồng với trách nhiệm bản thân của mỗi hội viên. Khi hội ngưng trả nợ, tức là hội viên cũng ngưng trả nợ vì thế sự khánh tận của hội lôi kéo luôn sự khánh tận của các hội viên.
1342._ Trách nhiệm: Theo điều 42 TMTP, 22 TMP, 171 LTM 1972, các hội viên trong hội hợp danh phải chịu trách nhiệm liên đới, vô hạn định, trên sản nghiệp của mình, về công nợ của hội. Các hội viên phải chịu trách nhiệm như vậy với tư cách hội viên, không cần phải là tên mình có ghi trong hội danh. Trách nhiệm này có tính cách trật tự công cộng. Mọi điều khoản, trong khế ước lập hội, giảm thiểu hay miễn trừ trách nhiệm cho hội viên đều vô hiệu. Những người đệ tam giao thiệp với hội được quyền bảo đảm chẳng những trên sản nghiệp của hội mà cả trên sản nghiệp riêng của mỗi hội viên; Nhưng trên sản nghiệp riêng của hội viên nào, họ phải chịu sự cạnh tranh của những chủ nợ riêng của hội viên ấy. Hội viên tuy không được giảm thiểu hay miễn trừ trách nhiệm do khế ước lập hội, nhưng người đệ tam, trong sự giao thiệp qua lại với hội qua sự đại diện của người quản lý về một công việc nào đó, có thể miễn trừ cho hội viên khỏi phải chịu trách nhiệm. Sự miễn trừ, ở trường hợp này, không trái với trật tự công cộng, vì do chính người được hưởng thụ chấp thuận. Đó là quyền lợi riêng của họ mà họ có toàn quyền quyết định.
1343._ Để nhận định được rõ ràng trách nhiệm bản thân của hội viên trong công ty hợp danh, ta cần phải phân biệt ba trường hợp: a) Trách nhiệm về những cam kết trước khi hội viên gia nhập; b) Trách nhiệm về những cam kết trước khi hội viên gia nhập; c) Trách nhiệm về những cam kết trong khi hội viên còn ở trong hội.
1344._ Về những cam kết của hội trước khi hội viên gia nhập_ Ta có thể nghĩ rằng về những cam kết này, hội viên mới gia nhập không bị trách nhiệm vì lẽ hội đã cam kết từ hồi nào, hội viên mới không hề được hay biết. Nhưng nguyên tắc là hội viên mới vẫn phải chịu trách nhiệm, vì do sự gia nhập, hội viên mới đã xác nhận trách nhiệm của những hành vi của hội đã làm từ trước; _ Trước khi gia nhập, hội viên tất nhiên đã phải tìm hiểu tình trạng hoạt động của hội, đã biết hội đã làm những việc gì và còn những việc gì đang thực hiện. Tuy nhiên, theo lẽ thì khi giao dịch với hội trước khi có hội viên mới gia nhập, người đệ tam chỉ nhằm vào trách nhiệm của các hội viên hiện hữu lúc giao dịch, bởi thế hội viên mới có thể giao ước là không chịu trách nhiệm về các công nợ cũ của hội. Điều khoản này, vì lẽ trên, được coi là hữu hiệu, nhưng phải điều kiện lạ có công bố cho các người đệ tam được biết.
1345._ Về công nợ của hội sau khi hội viên ra khỏi hội_ Hội viên đã ra khỏi hội là không còn liên lạc gì với hội nữa, vậy những công việc do hội làm sau ki mình rút lui, hội viên không còn phải chịu trách nhiệm. Muốn vậy, hội viên rút lui phải công bố sự rút lui của mình, nếu tên mình có trong hội danh, thì phải không còn giữ tên mình trong hội danh ấy. Sự công bố rút lui và xóa tên của hội viên rút lui trong hội danh được thực hiện do sự mẫn cán của quản lý viên của hội.
1346._ Về những cam  kết của hội trong khi hội viên còn ở trong hội. Tất cả các hội viên đều phải chịu trách nhiệm về những cam kết này, dẫu rằng đã rút lui rồi. Một trường hợp đặc biệt có thể xảy ra là hội viên đã di nhượng họp lệ phần lợi của mình cho người khác và sự di nhượng cũng đã được công bố hợp lệ (số 1334). Câu hỏi đặt ra là trong trường hợp này, hội viên có còn phải chịu trách nhiệm nữa không, hay chính người đắc nhượng phải thay thế chịu trách nhiệm; Nói cách khác, sự di nhượng có đối kháng được với người đệ tam không? Quan điểm của án lệ là sự cho phép di nhượng do hội quy, trước hết nhằm mục đích duy trì sinh hoạt của hội trong trường hợp hội viên rút khỏi hội; do đó hội viên rút lui vẫn phải chịu trách nhiệm về những công nợ của hội phát sinh do những cam kết của hội trước khi nhượng phần hội của mình cho người khác. Tuy rằng có tác giả có ý kiến khác, nhưng cũng có tác giả tán đồng án lệ này, vì lẽ hội hợp danh chỉ có một số vốn nhỏ, uy tín hội dựa vào uy tín cá nhân của hội viên; người đệ tam giao dịch với hội đặt tín nhiệm nhiều vào cá nhân hội viên. Vì vậy những công nợ xuất phát trong lúc mình còn hiện diện ở hội, thì hội viên vẫn phải chịu trách nhiệm, mặc dù đã nhượng phần hội cho người khác (Civ 16.3.1942 DC 1942.J.62).
1347._ Sự phát động trách nhiệm liên đới của hội viên: Ta cần nhận định rõ ràng rằng, trách nhiệm liên đới buộc vào các hội viên là trách nhiệm liên đới giữa họ với nhau. Câu hỏi đặt ra là họ có bị trách nhiệm liên đới với hội không? Nói cách khác, các chủ nợ có quyền truy tố hội viên để đòi nợ, không cần phải truy tố hội trước không? tức là các hội viên có được hưởng biệt lợi hậu truy không? Theo điều 42 TMTP và điều 22 TMP đều không quy định rõ vấn đề này. Đáng tiếc là điều 171 LTM 1972 cũng không giải quyết vấn đề cho được tường tận. Điểm chắc chắn là, đối với chủ nợ của hội, con nợ chính là hội, còn các hội viên chỉ có trách nhiệm phụ thuộc như người bảo lãnh liên đới, tức là các hội viên không được hưởng biệt lợi hậu truy. Nhưng người chủ nợ phải chứng tỏ là món nợ mình đòi là nợ do hội thiếu và phải đã có đốc thúc đòi hội trả. NHững điều kiện này làm cho trách nhiệm liên đới của hội viên không bị ứng dụng một cách quá máy móc, ngặt nghèo, tuy phần nào không sát với nguyên tắc với nghĩa vụ liên đới, nhưng có hậu quả tốt là tránh cho hội viên khỏi bị truy tố một cách không thích đáng.
1348._ Giữa các hội viên với nhau, tình trạng liên đới được giải quyết theo phổ thông luật pháp. Một người trả nợ là làm cho tất cả hội viên khác được giải trái đối với người đệ tam chủ nợ. Tố quyền chủ nợ được gián đoạn thời tiêu với một hội viên là cũng được gián đoạn với tất cả các hội viên khác. HỘi viên nào đã trả nợ sẽ có quyền truy tố các hội viên khác, đòi mỗi người phải bồi hoàn kỷ phần của họ trong món nợ chung. Hội viên ấy được thế quyền chủ nợ; trái quyền của chủ nợ được truyền sang tay hội viên đã trả, với tất cả đặc lợi của trái quyền; nói cách khác, hội viên đã trả nợ được hưởng đủ các bảo đảm đặc biệt của món nợ, nếu có, y như chủ nợ cũ.
1349._ Trách nhiệm của hội viên trong hội dân sự: Một hội hợp danh cũng như một hội hợp tư đơn thường, có thể  không phải là hội thương mại, mà chỉ là một hội dân sự vì mục tiêu của hội là một hoạt động dân sự. Trong trường hợp này, hội vẫn được quy định do luật thương mại, vẫn phải theo thể thức luật thương mại, nhưng trách nhei65m cảu hội viên không phải là trách nhiệm liên đới như được ấn định tại điều 42 TMTP, 22 TMP, 171 LTM 1972. Trách nhiệm này phải được thực thi theo các thể lệ dân luật; Theo Điều 1463 Dân luật Trung, các hội viên không bị trách nhiệm liên đới về công nợ của hội; mỗi hội viên chỉ có thể kết buộc một hội viên khác do sự cam kết của mình, nếu có được ủy quyền; theo điều 1464 DLT, 1863 DLP, đối với chủ nợ kết ước với hội, các hội viên chỉ phải chịu trách nhiệm đồng đều, dẫu rằng phần hội của người này nhỏ hơn phần hội của người kia, trừ phi có sự giao ước đặc biệt xác định cho một hội viên chỉ phải chịu trách nhiệm đến mức phần hội của mình. Bộ Dân luật 1972 không quy định rõ ràng như vậy, nhưng đây chỉ là áp dụng nguyên tắc thông thường: Hành động của người quản lý kết buộc hội, và trách nhiệm về sự cam kết ấy sẽ phân chia giữa các hội viên, tính theo đầu người./.

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Nam Lua

Nam Lua

Bình luận

avatar