Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

13. Dẫn chứng quyền lợi

DẪN CHỨNG QUYỀN LỢI 

190._ Muốn đòi mọi người tôn trọng quyền lợi của mình, cũng như muốn thực hiện quyền lợi đó, chủ thể phải chứng minh sự xác thực của quyền lợi mà mình có. Sự dẫn chứng quyền lợi có tầm quan trọng đặc biệt trong thực tế. Muốn dẫn chứng quyền lợi phải làm cách nào? Trước hết ta phải phân biệt hai vấn đề thực tế và pháp lý.
Muốn minh chứng một người là chủ thể một quyền lợi, phải chứng tỏ hai điều: a) Phải tỏ rõ là một vài sự kiện đã có thực, thí dụ một khế ước đã được kết lập. Nếu là một vấn đề trách nhiệm dân sự thì phải minh chứng rằng có sự thiệt hại và người gây thiệt hại có lỗi. b) Phải viện dẫn một qui tắc pháp luật (Thí dụ một điều khoản của bộ Dân luật). Qui tắc này định rằng sự kiện nêu trên phát sinh ra quyền lợi.
Theo nguyên tắc, người dự kiện chỉ phải dẫn chứng sự kiện đã xảy ra, sự kiện này xem như nguồn gốc của quyền lợi. Người dự kiện không phải dẫn chứng qui tắc pháp luật. Thẩm phán xét xử được xem như đã biết qui tắc đó. Nói cách khác, tụng nhân không phải dẫn chứng pháp luật, chỉ phải dẫn chứng sự kiện chứng minh quyền lợi. Trong luật La mã, thẩm phán thường nói với đương tụng câu sau đây: Da mihi factum, Dabo tibi jus (Mi cho ta biết sự kiện, ta sẽ cho mi biết điều luật”.
191._  Tuy nhiên, nguyên tắc dẫn chứng này cũng có hai biệt lệ:
a. Nếu quyền lợi tương tranh do tập tục (usages), chứ không phải pháp luật công nhận thì đương sự phải dẫn chứng tập tục đó.
b. Nếu quyền lợi tranh chấp do luật nước ngoài điều chỉnh thì cũng vậy, đương sự cũng phải dẫn luật này.
Ngoài hai biệt lệ này, đương sự không phải dẫn chứng quy phạm pháp luật.
192._ Trong các vụ kiện, người ta thường thấy luật sư của đôi bên tranh luận. Sự tranh luận đó, nếu có, thường liên hệ đến ý nghĩa của quy tắc luật pháp áp dụng cho vụ kiện, chứ không liên quan đến sự dẫn chứng quy tắc này. Bên nào cũng cố giải thích quy tắc luật pháp có lợi cho mình, bằng cách viện dẫn học lý hay án lệ. Tuy vậy, thẩm phán vẫn có thể không nghe bên nào cả và xử theo quan điểm của mình về điểm pháp lý nêu lên. Còn về sự kiện thực tế thì trái lại, thẩm phán không thể theo ý riêng mà phải căn cứ vào các bằng chứng.
Ai có trách vụ dẫn chứng trong các vụ kiện dân sự và có mấy thể thức dẫn chứng? Đó là đối tượng của hai mục của chương này.

MỤC I: TRÁCH VỤ DẪN CHỨNG 

193._ Trong việc dẫn chứng, có một nguyên tắc căn bản là nguyên tắc trung lập của thẩm phán. Thầm phán không can thiệp vào việc tìm kiếm các bằng chứng trong vụ kiện dân sự. Thẩm phán chỉ quyết định căn cứ theo những bằng chứng mà các đương sự viện dẫn trước tòa. Tuy nhiên, khi xét cần, thẩm phán vẫn có thể truyền thi hành một vài biện pháp để thu thập thêm bằng chứng như mở cuộc điều tra dân sự, viếng trường sở (visite des lieux: tham quan cơ sở) hay trưng cầu giám định viên. Những chi tiết về các biện pháp này sẽ được trình bày trong môn học về dân sự tố tụng. Nay ta chỉ cần xét xem vấn đề trách vụ dẫn chứng hay gánh nặng dẫn chứng được đặt ra như thế nào? Nguyên đơn nại ra một quyền lợi. bị đơn phủ nhận quyền lợi này. Ai phải dẫn chứng? Nguyên đơn hay bị đơn? Trong vấn đề này có những nguey6n tắc cần phải biết. Những nguyên tắc này lại có những biệt lệ.

ĐOẠN I: Hai nguyên tắc trong sự dẫn chứng 

A _ Nguyên đơn có trách vụ dẫn chứng trước:

194._ Trong luật La Mã co câu “actori incumbit probatio” (Ai kiện thì người đó có trách vụ dẫn chứng –  bằng chứng thuộc về nguyên đơn). Dân luật minh thị rằng: Người đòi thi hành một nghĩa vụ phải dẫn chứng nghĩa vụ đó. Lẽ tự nhiên phải thế. Nguyên tắc này cũng được minh thị tại điều 1616 DLT. Bị đơn khi phủ nhận quyền lợi do nguyên đơn nại ra, không phải dẫn chứng là quyền lợi đó không có.

B_ Sự kháng biện của bị đơn.

195._ Sau khi nguyên đơn đã chứng minh được quyền của họ, bị đơn nếu muốn thắng kiện phải kháng biện. Phương tiện kháng biện gọi là khước biện (exceptio – một ngoại lệ). Trên nguyên tắc, khước biện phải do chính đương sự nêu lên, chứ không thể do tòa án tự ý tuyên phán, nhất là trường hợp khước biện vô hiệu, ngoại trừ khước biện vô thẩm quyền đối vật, về sự thiếu tư cách, thiếu năng lực thiếu lợi ích. Ví dụ: Nguyên đơn đã dẫn chứng là có cho bị đơn vay tiền và đòi bị đơn số nợ đó. Bị đơn, để chống lại, nại ra rằng y đã trả nợ. Đó là một khước biện. Bị đơn phải dẫn chứng sự kiện, như xuất trình biên lai. Người ta cho rằng, khi khước biện, bị đơn thủ vai trò của một tiền nguyên đơn, vì vậy mà y có trách vụ dẫn chứng. Trong một vụ kiện, thường có sự dằng co như vậy.
Hai nguyên tắc trên về sự dẫn chứng có nhiều biệt lệ, vì lẽ sự suy đoán pháp định làm đảo lộn nguyên tắc.

ĐOẠN II._ Biệt lệ: Sự suy đoán pháp định:

196._ Các sự suy đoán pháp định có hiệu lực miễn trách vụ dẫn chứng cho người đương tụng, mà người bình thường có trách vụ đó. Ví dụ: Một trẻ vị thành niên gây thiệt hại cho một người khác. Bình thường ra, một nạn nhân muốn bồi thường phải dẫn chứng là cha mẹ đứa nhỏ có lỗi. Nhưng luật pháp đã phỏng sẵn lỗi của cha mẹ đứa bé tại điếu 1384 DLP, 764 DLT. Vì vậy nên, nguyên đơn được miễn trách nhiệm dẫn chứng lỗi của cha mẹ đứa nhỏ. Sự miễn trừ này có lợi cho nguyên đơn. Nó là một biệt lệ của nguyên tắc thứ nhất đã được trình bày ở trên.
197._ Có nhiều loại suy đoán pháp định.
a. Suy đoán đơn thuần
Chỉ có hiệu lực cho đến khi có sự phản chứng. Trong ví dụ trẻ thành niên gây thiệt hại, lỗi của cha mẹ chỉ là một sự suy đoán đơn thuần, nghĩa là nó vẫn chấp nhận phản chứng. Cha mẹ có thể dẫn chứng là họ đã không thể ngăn cản được đứa nhỏ, khỏi gây thiệt hại.
b. Suy đoán cũng có thể thuộc loại bất khả cự tuyệt: (presomption irre’fragable). Suy đoán loại này có giá trị tuyệt đối. Nó không chấp nhận một phản chứng. Ví dụ: Sư suy đoán pháp định về trách nhiệm của chủ nhân đối với tác động của người thừa sai, có tính cách bất khả cự tuyệt (Điều 1384 DLP).
Ngoài hai loại suy đoán này, trong dân luật ta còn thấy có một suy đoán pháp định có tính cách chiết trung. Thí dụ: Theo dân luật, người đàn bà có chồng sinh con trong thời kỳ hôn nhân, đứa con được luật pháp suy đoán là con của người chồng. Đó là sự suy đoán phụ hệ pháp định (điều 100 luật gia đình 1964). Người chồng có thể dẫn chứng ngược lại để khước từ đứa con, nhưng không phải trường hợp nào cũng khước từ được. Luật pháp chỉ cho người cha khước từ con trong một số trường hợp mà thôi. Như vậy, người cha không được tự do dẫn chứng để đánh đổ sự suy đoán pháp định. Vì thế nên suy đoán này không có tính cách đơn thuần. Dù với tính cách nào đi chăng nữa (đơn thuần, bất khả cự tuyệt hay hỗn hợp), các suy đoán pháp định đều rất quan trọng. Sự suy đoán pháp định có thể thay đổi tình lý vụ kiện và rất có lợi cho người đương tụng được nó bảo vệ.

MỤC II: THỂ THỨC DẪN CHỨNG 

198._ Các thể thức của dẫn chứng là những phương tiện khác nhau dùng để thuyết phục thẩm phán. Các thể thức của dẫn chứng được dân luật quy định là: Bút chứng, nhân chứng, bằng chứng do suy đoán, tự thú và thệ chứng. Trước khi xét về mỗi thể thức, cần phải biết một vấn đề quan trọng liên hệ đến tất cả các thể thức dẫn chứng, đó là vấn đề khả chấp của các bằng chứng. Về phương diện này ta thấy có hai quan niệm khác nhau:
– Theo quan niệm thứ nhất, tất cả các thể thức dẫn chứng đều có thể chấp nhận. Điều cốt yếu là làm thế nào để thuyết phục được thẩm phán. Phương cách thuyết phục không quan trọng. Đó là chế độ dẫn chứng bằng tâm tín (intime conviction: niềm tin sâu sắc) hay là chế độ dẫn chứng tự do.
– Theo quan niệm thứ hai, chỉ có thể thuyết phục thẩm phán bằng những phương cách do luật định. Không phải chỉ cần thẩm phán tin mà phải đạt đến sự xác tín của thẩm phán, theo những quy tắc đã có sẵn. Đó là chế độ bằng chứng pháp định. Cả hai quan niệm đều không được theo một cách tuyệt đối. Luật pháp đã dung hòa cả hai. Chế độ bằng chứng tự do được áp dụng trong hình luật. Thẩm phán xét xử các vụ án hình sự hoàn toàn dựa theo tâm tín.
Dân luật áp dụng một chế độ dẫn chứng phức tạp hơn. Các thể thức dẫn chứng tùy thuộc vào nguồn gốc quyền lợi được viện dẫn. Tùy theo nguồn gốc đó là sự kiện pháp lý hay hành vi pháp lý, các dẫn chứng sẽ khác nhau.
a) Dẫn chứng sự kiện pháp lý: Theo nguyên tắc, nếu là sự kiện pháp lý thì dẫn chứng bằng cách nào cũng được. Ví dụ: bằng nhân chứng, bằng dấu vết, tang tích trong vụ đụng xe. Tuy nhiên, nguyên tắc dẫn chứng tự do cũng có nhiều biệt lệ. Biệt lệ quan trọng liên hệ đến các sự kiện thuộc về thân trạng. Ví dụ: Các việc sinh, tử phải được được dẫn chứng bằng chứng thư hộ tịch. Bằng chứng về phụ hệ cũng do dân luật ấn định một cách hạn chế. Ta sẽ nói rõ hơn khi học luật gia đình
b) Dẫn chứng hành vi pháp lý: Chế độ bằng chứng pháp định được áp dụng cho các hành vi pháp lý. Theo nguyên tắc hành vi pháp lý chỉ có thể được minh thị bằng bút chứng. Bút chứng này phải là một tài liệu do chính các đương sự thảo khi tạo lập hành vi. Vì vậy, người ta còn gọi là chế độ bằng chứng tiền lập. Tuy nhiên, nguyên tắc này không tuyệt đối. Thường khi sự tự thú hay lời thề có thể thay thế cho bút chứng. Đặc biệt hơn nữa là trong một vài trường hợp luật định, có thể dùng nhân chứng hay suy đoán để dẫn chứng các hành vi pháp lý.

ĐOẠN 1_ Bút chứng

Chúng thư bút chứng là  quan trọng nhất. Sau mới đến các văn kiện khác, được đặc biệt coi như bút chứng.

A._ Chứng thư  

199._ Chứng thư là văn kiện viết, chứng nhận một sự biểu thị ý chí. Sự biểu lộ ý chí này là sự thỏa thuận giữa các người lập ước (trong trường hợp một khế ước). Có hai loại chứng thư: Công chính chứng thư và tư chứng thư.

1_ Công chính chứng thư
Công chính chứng thư (Acte authentique) là những chứng thư do hộ lại hoặc các viên chức được pháp luật công nhận có thẩm quyền lập. Ví dụ: Chứng thư hộ tịch, chứng thư chưởng khế. Ở đây ta chỉ xét các chứng thư chưởng khế. Các chứng thư về hộ tịch sẽ được xét sau, ở phần nói về thân trạng.
a) Cách lập chứng thư chưởng khế. Theo nguyên tắc bản thảo của chứng thư chưởng khế được lưu tại văn phòng chưởng khế. Bản này được gọi là nguyên cảo. Chưởng khế chỉ cấp cho các đương sự bản sao. Có hai thứ bản sao: Bản sao thường gọi là toàn sao và bản sao có thêm văn thức chấp hành gọi là bản sao đại tự (grosse). Chỉ có bản chính các giấy ủy quyền làm trước chưởng khế là đươc giao ngay cho đương sự mà thôi.
b) Tín lực của công chứng thư: Theo nguyên tắc, công chứng thư có một tín lực rất mạnh. Muốn đánh đổ bằng chứng này phải khởi kiện theo thủ tục rất phức tạp, gọi là đăng cáo giả mạo. Chỉ khi nào tòa xét là có sự giả mạo, công chính chứng thư viện dẫn mới mất tín lực. Tuy nhiên, trong văn bản công chứng thì chỉ có những điều do đích thân công chứng viên hoặc hộ lại nhận xét (như ngày, tháng, việc trả tiền trước công chứng, sự hiện diện của đôi bên mới có tín lực mạnh như đã nói. Trái lại, những điều mà công chứng viên không nhận xét được, thì có tín lực vừa phải, nghĩa là có thể đánh đổ bằng phản chứng. Ví dụ: Trong việc mua bán, công chứng hợp đồng ghi lời khai diện tích thửa đất bán.
Văn tự do chưởng khế tá lả có hiệu lực chấp hành (Điều 76 Dụ ngày 27-11-1954, phỏng theo Điều 79 Luật ngày 25 Ventose năm II của Pháp). Như vậy, có nghĩa là chủ nợ có thể dùng văn tự do chưởng khế lập, cưỡng chế con nợ phải thi hành nghĩa vụ, không cần phải xin án văn của Tòa án mới chấp hành được.

200._ Chứng thư thị thực: Do Điều 1629 DLT qui định, cũng được xếp vào loại công chính chứng thư. Chứng thư thị thực là chứng thư do tư nhân lập nhưng được chức dịch sở tại xác nhận là hai bên đã được nghe đọc lại những điều cam kết và đã ký kết trước mặt chức dịch, sau khi chức dịch đã xem căn cước của họ. Do thể thức ấy, chứng thư thị thực có giá trị một công chứng thư. Trái lại chứng thư được nhận thực chữ ký, không hội đủ điều kiện kể trên, không có giá trị một chứng thư thị thực, nghĩa là chỉ được coi như một tư chứng thư.

2. Tư chứng thư:

201._ Tư chứng thư (actes sous seing-prive’ – tài liệu riêng tư) là những chứng thư do chính các đương sự tự lập lấy, hoặc nhờ một người không phải là công lại lập.

a) Cách soạn thảo tư chứng thư.

Về hình thức chỉ có một điều kiện cần thiết cho tư chứng thư là chữ ký của các đương sự. Tuy nhiên, nếu là khế ước tương thuận thì dân luật buộc phải có thêm một điều kiện nữa là phải lập làm nhiều bản (ít nhất là 2 bản), mỗi bên giữa một bản. Số bản phải bằng số người lập ước. Có  một quy tắc riêng áp dụng cho chứng thư công nhận lời hứa đơn phương cho hay cho đồ vật: Chứng thư phải do chính người đã hứa tự tay viết rồi ký, hoặc nếu đánh máy thì trước khi ký phải tự tay chua thêm hai chữ “nhận đích”. Thể thức này được lập ra, mục đích để tránh những sự lạm dụng bạch khế (blanc seing – hợp đồng khống).

b) Tín lực của tư chứng thư.

Tín lực tư chứng thư kém tín lực công chứng thư. Trước hết, chữ ký trên tư chứng thư có thể bị người ký phủ nhận mà không phải dẫn chứng. Trong trường hợp này người có chứng thư phải kiện theo thủ tục kiểm tự, mục đích để biết chữ ký trên chứng thư thực hay giả. Thủ tục kiểm tự phải cần giám định viên nên tốn kém và rất lâu.
Nói tóm lại, tư chứng thư chỉ là một bằng chứng mỏng manh, tín lực của nó yếu ớt, nhất là khi gặp phải một người đồng ước gian dối. Những điều ghi trong tư chứng thư chỉ có tín lực đến khi người đối tụng dẫn được một chứng thư khác, đem lại một sự phản chứng. Tuy nhiên, trong tư chứng thư có hai thứ hiệu lực: Thứ nhất là hiệu lực tin tưởng, tức là giá trị bằng chứng của tư chứng thư (Hiệu lực này yếu). Thứ hai là hiệu lực cưỡng bách, tức là sức mạnh bó buộc của chứng thư đối với hai bên đương sự. Về hiệu lực thứ hai này tư chứng thư có giá trị như công chính chứng thư. Đó là ý nghĩa điều 1322 D.L.P. Ngày tháng ghi trong tư chứng thư khôn có tín lực đối với đệ tam nhân. Sở dĩ như vậy vì các đương sự dễ thỏa thuận với nhau để ngụy tiến hoặc ngụy thoái nhật ký (postdater), làm thiệt hại quyền lợi đệ tam nhân. Tuy nhiên co1ba trường hợp ngày, tháng ghi trong chứng thư tư thự được xác nhận. Ba trường hợp đó là: Khi chứng thư được trước bạ, khi một trong những người ký vào chứng thư đã chết, khi chứng thư đã được xác nhận trong một chứng thư công chính.

B._ Bút chứng ngoài chứng thư.

 202._ Ngoài công chứng thư và tư chứng thư, còn có một số văn kiện khác cũng đôi khi có thể dùng làm bút chứng với một tín lực yếu ớt hơn, như sổ sách nhà buôn, gấy tờ gia đình, thư từ. Sổ sách nhà buôn có tín lực. Giấy tờ hay sổ sách gia đình không thể dùng để dẫn chứng có lợi cho người giữ sổ sách hay viết giấy tờ đó. Ta sẽ thấy giấy tờ gia đình có đôi chút lợi ích khi cần dẫn chứng lei6n lạch tới phụ hệ. Thư từ (tư thư) cũng xuất trình trước tòa, nếu được cả hai bên, người viết thư và người nhận thư, ưng thuận cho xuất trình. Thông thường một tư thư chỉ có thể là một khởi chứng (commencement de preuve: bắt đầu bằng chứng). Muốn có tín lực, nó còn phải được bổ sung bắng một bằng chứng nữa.

ĐOẠN II: Nhân chứng.

 203._ Nhân chứng là những người ra trước cơ quan tư pháp để làm chứng về những sự kiện mà họ được đích thân nghe thấy hay trông thấy. Nếu chỉ nghe người khác nói hay nghe lời đồn đại mà thuật lại thì không phải là nhân chứng. Luật pháp cấm đoán cách dẫn chứng bằng lời đồn đại có tính chất quá mơ hồ, thiếu chắc chắn. Lời khai của nhân chứng được lập theo những quy tắc nhất định do bộ luật dân sự tố tụng ấn định. Nó thuộc về thủ tục điều tra dân sự. Nhân chứng chỉ được chấp nhận để minh chứng cho sự kiện pháp lý, mà không được chấp nhận để minh chứng hành vi pháp lý, trừ trường hợp luật định khác. Nguyên tắc này nói rõ sự ưu thế của bút chứng: Bút chứng được xem là bằng chứng chắc chắn nhất. Nguyên tắc này có một hệ luận là không thể dùng nhân chứng để phản lại bút chứng.
204._ Tuy nhiên, nguyên tắc cấm dùng nhân chứng để dẫn chứng hành vi pháp lý cũng có những biệt lệ:
a) Trường hợp không thể nào viện dẫn bút chứng như khi bút chứng bị thất lạc trong một trường hợp bất khả kháng (loạn ly, cháy nhà, lụt lội, đắm tàu v.v…) thì có thể dùng nhân chứng. Cả trong trường hợp có sự bất khả vật chất hay tinh thần khiến không thể có bút chứng, luật pháp cũng cho phép viện dẫn nhân chứng. Ví dụ: Khách thuê phòng ngủ thường hay gửi đồ vật quí cho chủ khách sạn mà thường không lấy biên lai. Sự gửi đồ này là hành vi pháp lý, được dẫn chứng bằng nhân chứng.
b) Khi có một khởi chứng cũng có thể dùng nhân chứng để bổ khuyết. Khởi chứng là mọi văn kiện, dù không ký, do người đối tụng lập ra; nội dung văn kiện này phải khiến cho người ta có thể tin rằng sự kiện viện dẫn có thực.
Những biệt lệ trên đây và nhất là cách giải thích rộng rãi các khởi chứng đã khiến cho nguyên tắc cấm dùng nhân chứng để dẫn chứng hành vi pháp lý mất tính cách cứng rắn. Ngày nay, nhân chứng đã thành một thể thức dẫn chứng được áp dụng nhiều hơn trước. Cả cách dẫn chứng bằng suy đoan cũng tiến triển theo một chiều hướng tương tự. Tuy vậy, vẫn có sự khác biệt giữa bút chứng và nhân chứng là nhân chứng không bao giờ bó buộc được thẩm phán. Tòa án có toàn quyền xét đoán và có thể không tin vào nhân chứng. Nguyên tắc dẫn chứng trong luật Việt Nam là tự do dẫn chứng, bất luận về vấn đề gì cũng có thể chứng tỏ bằng nhân chứng, trừ những trường hợp riêng biệt mà luật đã định rằng phải có bằng chứng tiền lập bằng giấy tờ. Tòa Thượng Thẩm Saigon gần đây đã xác nhận nguyên tắc này. Cũng theo nguyên tắc này, luật Việt Nam không bó buộc dẫn chứng bằng văn tự (bút chứng) khi số tiền giao kết lên tới một mức nào và có thể dẫn chứng bằng nhân chứng trong mọi trường hợp.

ĐOẠN III: Suy đoán.

205._ Những suy đoán ở đây là suy đoán nhân định hay suy đoán thực tế, khác với suy đoán pháp định. Thực ra suy đoán pháp định là những miễn chứng. Suy đoán nhân định hay suy đoán thực tế là một thể thức dẫn chứng. Các suy đoán thực tế là các dấu vết, các tang tích (indices). Nó không thực sự chắc chắn nhưng có thể khiến cho ta tin một sự kiện là đúng. Ví dụ: Trong tai nạn xe hơi, chiều dài của vết bánh xe bị thắng in lằn trên mặt đường cho phép ta căn cứ vào đó mà suy luận ra tố độ của xe. Trong một vụ kiện về nợ, bị đơn chối không vay, nhưng nguyên đơn dẫn chứng rằng bị đơn có đóng tiền trả góp. Từ sự trả góp này, ta có thể suy đoán món nợ là có thực. Các suy đoán chỉ được chấp nhận khi cần dẫn chứng sự kiện pháp lý. Trong việc dẫn chứng hành vi pháp lý, theo nguyên tắc, các suy đoán không phải là một bằng chứng được chấp nhận. Về tín lực, các suy đoán cũng giống như nhân chứng, nghĩa là không có tính cách bắt buộc thẩm phán.

ĐOẠN IV: Tự thú

206._ Tự thú là tự công nhận một sự kiện có thể làm phát sinh những hậu quả pháp lý bất lợi cho mình. Ví dụ: Công nhận là đúng một sự kiện do người đối tụng nại ra để kiện mình.

A. Hai loại tự thú

Người ta phân biệt hai loại tự thú là tự thú ngoại tụng và tự thú nội tụng. Mỗi loại có tín lực khác nhau. Tự thú ngoại tụng xảy ra ngoài vụ kiện ở tòa án. Nếu tự thú ngoại tụng thành văn thì nó có tín lực như một bút chứng. Nếu là tự thú miệng, thì nó phải được dẫn chứng bằng nhân chứng. Tự thú nội tụng xảy ra ở Tòa, ngay giữa vụ kiện đương đường. Tự thú nội tụng được coi là bằng chứng chắc chắn nhất là “bà chúa” của tất cả các bằng chứng, ít nhất là trong lĩnh vực dân luật, vì nó bó buộc thẩm phán. Trong lĩnh vực hình sự, tự thú không bó buộc thẩm phán. Tự thú nội tụng được chấp nhận trong mọi lĩnh vực, mọi trường hợp. Nó có thể dẫn chứng hành vi pháp lý, cũng như sự kiện pháp lý. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, luật pháp không chấp nhận tự thú vì nó có thể là một mánh khóe để che đậy dụng ý của đương tụng. Ví dụ: Dân luật cấm thuận tình ly hôn. Muốn xin ly hôn nguyên đơn phải dẫn chứng được một sự kiện xem như duyên cớ ly hôn pháp định. Nếu chấp nhận sự tự thú, thì bị đơn chỉ cần thú nhận sự kiện thành duyên cớ do nguyên đơn trình bày là được ly dị. vậy hóa ra gian tiếp cho phép đương sự thuận tình ly hôn. Tự thú cũng có thể dùng để che giấu một quan hệ pháp luật  khác thì sự thú này cũng không được tòa án chấp nhận.

B. Hai tính cách của tự thú

Hai tính cách của tự thú là bất khả truất bãibất khả phân. Tính bất khả truất bãi của tự thú có nghĩa là tự thú rồi thì không thể phản cung để chối lời đã thú (riêng trong lĩnh vực dân luật). Tính bất khả phân của tự thú có nghĩa là điều tự thú không thể phân tách ra nhiều sự kiện để chỉ nhìn nhận những sự kiện lợi cho mình mà phủ nhận những sự kiện bất lợi.
Trong một vụ kiện trước tòa án dân sự, như vụ kiện nợ, nếu chủ nợ không có giấy tờ mà người mắc nợ (bị đơn) thành thật thú nhận có vay nợ nhưng đã trả được một phần, chỉ vì tin nhau không lấy biên lai thì tòa án có trách nhiệm chấp nhận toàn thể lời thú nhận ấy để xác nhận vừa có vay nợ, vừa đã trả một phần nợ.

ĐOẠN V: Thệ chứng

207. Thề là quả quyết long trọng bằng một sự kiện có thực. Sự kiện được quả quyết có thực là sự kiện do chính đương sự nại ra trong đơn kiện. Như vậy thệ chứng trái ngược với tự thú.

Thệ chứng có mục đích minh chứng một điều có lợi cho mình. Tự thú trái lại, minh chứng một điều bất lợi cho mình. Lúc khởi thủy lời thề là một hành vi có tính cách tôn giáo. Chính tín lực của nó do tính cách tôn giáo mà có.

Có hai hạng thệ chứng là thề bổ trợ và thề quyết tụng. Thề bổ trợ không có tín lực tuyệt đối. Thẩm phán có quyền không hoàn toàn tin; Vì vậy nên bằng chứng này ít dùng đến trong thực tế.

Thề quyết tụng, trái lại, có tín lực tuyệt đối. Nó quyết định kết quả vụ kiện. Thề quyết tụng do một bên đương tụng thách người đối tụng của mình. Người bị thách có một trong ba thái độ sau đây: a) Chịu thề và được kiện;
b) Không chịu thề và thua kiện;
c) Thách trả lại đối phương của mình. Nếu người đối tụng chịu thề thì được kiện, không chịu thề thì thua kiện.
Trong mọi trường hợp, sự chịu thề chấm dứt vụ kiện, đem thắng lợi cho người chịu thề, dù sau này có bằng chứng là lời thề không đúng sự thật. thể thức dẫn chứng này vì vậy rất nguy hiểm. Thách đối phương thề là đặt số phận vụ kiện tùy thuộc vào tính ngay thẳng của người đối tụng. Hình luật trừng trị nặng kẻ thề gian, nên người ta tin tưởng ở lời thề và cho nó một tín lực rất mạnh. Thệ chứng được chấp nhận trong mọi lĩnh vực, khi dẫn chứng sự kiện pháp lý cũng như hành vi pháp lý. Tuy nhiên nó không đượ chấp nhận trong các vụ án ly hôn và các vụ kiện về phụ hệ./.

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Nam Lua

Nam Lua

Bình luận

avatar