Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

15. Luật dân sự La Mã – Những chế định cơ bản và giá trị đương đại

PHẦN MỞ ĐẦU

I. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

(1). Luật La Mã là hệ thống luật cổ gắn liền với sự ra đời và phát triển của Đế quốc La Mã, được xem là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhất của nhà nước chiếm hữu nô lệ. Khi nghiên cứu về luật La Mã, Ăngghen đã nhận xét: “Trong xã hội tư hữu thì không có một xã hội nào có luật hoàn chỉnh hơn luật La Mã”. Đây là hệ thống luật có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và rộng rãi nhất đến hệ thống pháp luật của các quốc gia (điển hình là pháp luật của phần lớn các nước Châu Âu lục địa như Pháp, Đức, Italia và một số nước châu Mỹ Latinh). Vì nhiều lý do trong lịch sử, Việt Nam cũng là nước chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi pháp luật La Mã, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự.

(2). Trong các chế định cơ bản của luật dân sự La Mã, các chế định tài sản và quyền sở hữu, chế định hợp đồng có ảnh hưởng đến hầu hết các chế định khác của luật dân sự. Những quy định của luật dân sự La Mã mặc dù còn tồn tại nhiều điểm hạn chế do tính chất xã hội lúc bấy giờ, nhưng các chế định cơ bản nêu trên vẫn được áp dụng cho đến ngày nay trong cả hệ thống pháp luật bất thành văn và hầu hết hệ thống pháp luật thành văn.

Tại Việt Nam, trong thời gian qua, hệ thống pháp luật dân sự đang ngày càng hoàn thiện với nhiều luật chuyên ngành điều chỉnh, góp phần giảm thiểu gánh nặng cho BLDS trong giải quyết những quan hệ dân sự, từ đó tạo nền tảng tốt hơn để phát huy vai trò của BLDS là luật chung của hệ thống luật điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng của các chủ thể. Tuy lịch sử phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam vẫn còn rất mới so với các nước khác trên thế giới (BLDS đầu tiên của Nhà nước Việt Nam mới được thông qua năm 1995 và được sửa đổi, thay thế năm 2005, 2015) nhưng các Bộ luật đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa tư duy của luật dân sự La Mã.

Mặc dù qua thực tiễn thi hành cho thấy vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: về chế định tài sản và quyền sở hữu, khái niệm tài sản theo luật dân sự Việt Nam vẫn chưa mang tính khái quát, việc phân loại tài sản chưa rõ ràng, vì vậy, khi phát sinh đối tượng mới trong xã hội chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh mà xảy ra tranh chấp thì sẽ khó giải quyết. Hay về đăng ký tài sản, từ Điều 257 đến Điều 272 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền hưởng dụng, quyền bề mặt nhưng do thiếu cơ chế đăng ký quyền hưởng dụng, quyền bề mặt dẫn đến việc triển khai các quyền này trên thực tế chưa hiệu quả… Về hợp đồng, Việt Nam quy định về khái niệm và các loại hợp đồng dân sự rộng hơn luật dân sự La Mã, tuy nhiên, vẫn còn nhiều điểm bất cập, hạn chế. Đặc biệt, khi xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ dân sự và giao lưu dân sự ngày càng được mở rộng thì chế định tài sản, quyền sở hữu, chế định hợp đồng càng là các chế định quan trọng trong Bộ luật dân sự nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu tài sản, các giao dịch dân sự, bảo đảm trật tự trong giao lưu dân sự.

Trước yêu cầu thể chế hoá đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như các tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, thời gian qua, quyền sở hữu, quyền bình đẳng giữa các chủ thể, sự cân bằng trong quan hệ hợp đồng đã được ghi nhận như: trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; Kết luận số 103-KL/TW, ngày 29/9/2014 của Bộ Chính trị về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được ban hành kèm theo Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020; trong năm 2020, Chính phủ đã đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền sở hữu tài sản như Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 25/9/2020 về phát triển bền vững;…

Do đó, để tiếp tục có cơ sở hoàn thiện các chế định nêu trên trong pháp luật dân sự Việt Nam, ngoài những phương pháp nghiên cứu truyền thống hay học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác thì việc nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích những chế định cơ bản của luật dân sự La Mã, chỉ ra những giá trị tham khảo và sự tiếp nhận luật dân sự La Mã trong việc xây dựng các chế định dân sự ở Việt Nam cũng góp phần hiểu rõ hơn cội nguồn của hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, từ đó có thêm căn cứ để Việt Nam có thể sử dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật dân sự trong thời gian tới. Vì vậy, có thể thấy, việc nghiên cứu Đề tài:“Luật dân sự La Mã – Những chế định cơ bản và giá trị đương đại” là hết sức cần thiết.

II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài được thực hiện với mục tiêu nghiên cứu tổng quát là phân tích, làm rõ những giá trị lịch sử và đương đại của một số chế định cơ bản của luật dân sự La Mã (phạm vi bao gồm: chế định tài sản và quyền sở hữu; chế định hợp đồng), từ đó đưa ra những kiến nghị góp phần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chế định nêu trên của Luật dân sự Việt Nam hiện hành.

2.2. Về nhiệm vụ nghiên cứu

Căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu như đã nêu trên, Đề tài có các nhiệm vụ sau đây:

(1) Nghiên cứu chế định tài sản và quyền sở hữu; chế định hợp đồng của Luật dân sự La Mã;

(2) Nhận diện các giá trị lịch sử và đương đại của chế định tài sản và quyền sở hữu và chế định hợp đồng của luật dân sự La Mã;

(3) Đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm góp phần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chế định tài sản và quyền sở hữu; chế định hợp đồng của luật dân sự Việt Nam hiện hành.

3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu bao gồm: giá trị đương đại của các chế định cơ bản gồm: chế định tài sản, quyền sở hữu và chế định hợp đồng được quy định trong Bộ pháp điển của Hoàng đế Jusstinian, các chế định còn lại (về thừa kế, hôn nhân, các quy định chung…) sẽ được nghiên cứu trong các công trình khoa học khác.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu phổ biến trong nghiên cứu khoa học pháp lý: phương pháp phân tích, đánh giá, bình luận; phương pháp tổng hợp; phương pháp thống kê số liệu trong quá trình nghiên cứu đề tài.

Ngoài ra, với đặc trưng của Đề tài nghiên cứu, Ban Chủ nhiệm sẽ sử dụng một số phương pháp đặc thù như: phương pháp luật học so sánh nhằm so sánh, đối chiếu giữa quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng ở Việt Nam với luật dân sự La Mã và một số nước trên thế giới. Phương pháp nghiên cứu hệ thống, đặt vấn đề trong mối liên hệ với hệ thống chính trị, với vấn đề hoàn thiện nhà nước pháp quyền và dân chủ xã hội chủ nghĩa,

5. CÁC KẾT QUẢ CỦA ĐỀ TÀI

Kết quả của đề tài gồm có những sản phẩm sau đây:

5.1. Các Báo cáo nội dung: gồm 03 Báo cáo.

5.2. Bài đăng tạp chí: 02 bài báo:

– Bài báo: Lưu Thị Phấn, “Quyền sở hữu tài sản dưới góc độ quyền con người Thực trạng và một số kiên nghị hoàn thiện”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số (390), tháng 10/2023.

– Bài báo: Lê Hồng Thái, Tài sản trong Luật Dân sự La Mã và Bộ luật Dân sự 2015 – Những giá trị được kế thừa và phát triển”, Tạp chí Pháp luật và phát triển, Số 6/2023.

5.3. Báo cáo tổng hợp kết quả Đề tài: Ban Chủ nhiệm đề tài đã xây dựng Báo cáo phúc trình của đề tài với kết cấu gồm các phần sau:

Chương 1. Khái quát chung về luật dân sự La Mã và sự ảnh hưởng đối với pháp luật dân sự Việt Nam;

Chương 2. Nhận diện giá trị đương đại của một số chế định cơ bản trong luật dân sự La Mã đối với pháp luật dân sự Việt Nam;

Chương 3. Nhu cầu kế thừa các giá trị của luật dân sự La Mã và kiến nghị những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.

 

 

NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI

————***————

Đề tài tập trung nghiên cứu 03 vấn đề, gồm:

Chương 1. Khái quát chung về luật dân sự La Mã và sự ảnh hưởng đối với pháp luật dân sự Việt Nam;

Chương 2. Nhận diện giá trị đương đại của một số chế định cơ bản trong luật dân sự La Mã đối với pháp luật dân sự Việt Nam;

Chương 3. Nhu cầu kế thừa các giá trị của luật dân sự La Mã và kiến nghị những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.

Qua đó, nhóm nghiên cứu rút ra một số nội dung chính của Đề tài như sau:

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ LA MÃ VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ LA MÃ

Gắn liền với việc hình thành và phát triển Nhà nước là sự ra đời của luật La Mã – đây không phải là tên của một bộ luật (như Bộ luật Hammurabi) mà khái niệm về luật La Mã rất rộng, được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau (theo Học giả Italia Riccardo Orestano giải thích thì có tới 06 ý nghĩa khác nhau). Theo tiếng Anh, thuật ngữ luật La Mã được gọi là “Roman Law”– là pháp luật của nhà nước Roma cổ đại, được áp dụng đầu tiên cho thành Roma và sau đó là cả Đế quốc La Mã, đồng thời còn là luật được áp dụng xuyên suốt ở Châu Âu cho đến tận cuối thế kỉ thứ XVIII, thậm chí ở Đức việc áp dụng luật dân sự La Mã còn kéo dài hơn (đến thế kỷ XIX).

Ngày nay, mặc dù đế chế La Mã đã tan rã sau hơn 13 thế kỷ (từ năm 98 đến khi Constantinople thất thủ vào năm 1453 vì nguyên nhân tham nhũng, bất ổn chính trị và sự xâm lược của các bộ tộc man rợ), nhưng có thể thấy, những thành tựu trong lĩnh vực xây dựng pháp luật của nhà nước La Mã là một trong những công trình văn hóa vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, in dấu ấn đậm nét và có tầm ảnh hưởng lớn đến các hệ thống luật trên thế giới (nhất là hệ thống các nước Châu Âu lục địa) … Trong đó, phần pháp luật dân sự là bộ phận nổi bật nhất mà các chế định của nó đã tạo nên khuôn khổ cơ bản cho luật dân sự, hệ thống luật được sử dụng phổ biến nhất hiện nay trên thế giới.

1. Khái quát lịch sử phát triển của luật dân sự La Mã

Có thể khái quát quá trình hình thành và phát triển của luật dân sự La Mã thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu từ thế kỷ thứ V TCN đến thế kỉ thứ VI là thời kỳ hình thành các luật; sau đó có một khoảng thời gian dài do hoàn cảnh lịch sử luật dân sự La Mã ít/không được áp dụng; giai đoạn hai là từ khoảng thế kỉ XI đến thế kỉ XIII là giai đoạn phục hưng của luật dân sự La Mã, cụ thể:

– Giai đoạn từ đầu thế kỷ thứ V TCN đến thế kỉ thứ VI: thời kì này đánh dấu bằng sự ra đời của luật 12 bảng vào khoảng năm 451 đến 449 TCN – là văn bản luật đầu tiên, cổ xưa nhất của nhà nước La Mã – nó được gọi tên như vậy vì được khắc vào 12 bảng đá vào năm 452 TCN. Luật 12 bảng đã đặt nền tảng cho sự phát triển của luật dân sự La Mã ở các giai đoạn sau này, gắn với sự phát triển của nền cộng hòa và đế chế La Mã.

Về nội dung, Luật 12 bảng điều chỉnh chung tất cả các quan hệ xã hội, chưa tách biệt ra thành luật công hay luật tư.

Về nội dung, tới thời đầu cộng hòa (bắt đầu khi chế độ quân chủ bị lật đổ vào khoảng năm 509 TCN và kéo dài hơn 450 năm) đã có sự phân biệt giữa luật công (ius publicum) và luật tư (ius privatum).

Đến triều đại Hoàng đế Justinian (527-565 CSN), những người không phải là công dân La Mã hoàn toàn bình đẳng với công dân La Mã, vì vậy, ba hệ thống luật ius civile (luật quyritium – luật công dân); ius gentium (luật vạn dân); ius praetorium (luật của các quan) đã được hợp nhất thành một hệ thống luật duy nhất.

Sự kiện có ý nghĩa nhất trong lịch sử phát triển của hệ thống dân luật thời kỳ này là công tác pháp điển (chọn lựa, sắp xếp, đơn giản hóa) tất cả luật pháp La Mã, các tư duy pháp lý, thậm chí là tranh luận giữa các luật gia La Mã của các thời kỳ trước đó đều được tập hợp, phân loại và pháp điển hóa một cách chặt chẽ, khoa học. Sau khi được pháp điển, luật dân sự La Mã được mang tên Bộ Dân luật (tiếng La tinh: Corpus Juris Civilis), ban hành năm 534 (có hiệu lực vào ngày 29/12/534).

Tại thời hoàng đế Justinian, sự phân biệt giữa luật công (ius publicum) và luật tư (ius privatum) khá rõ ràng. Tiêu chí để phân biệt luật công và luật tư là dựa trên những đặc điểm mà nội dung những quy định của luật dân sự La Mã về sự khác biệt các lợi ích (utilitas) thuộc cá nhân hay nhà nước.

– Giai đoạn từ khoảng thế kỉ XI đến thế kỉ XIII: được coi là thời kì phục hưng của luật dân sự La Mã. Thời kì này đánh dấu bằng sự kiện bộ tổng luật Corpus juris civilis của Justinian được nghiên cứu và đem vào giảng dạy tại các trường đại học và hòa trộn với luật giáo hội (canon law), tập quán và pháp luật phong kiến.

Có thể nói, Đạo luật Justinian đã đánh dấu sự kết thúc của lịch sử luật dân sự La Mã thời cổ đại. Như vậy, với tư cách là một nguồn lịch sử, Bộ Dân luật của Justinian đã cung cấp một bức tranh toàn diện về cách phát triển và tư duy pháp lý của luật dân sự La Mã.

2. Về nguồn của luật dân sự La Mã

Thứ nhất, tập quán của người La Mã: những tập quán được hình thành và chi phối mọi quan hệ xã hội và được coi là những chuẩn mực chung đối với hành vi của mọi người, những tập quán trong quan hệ tài sản, tôn giáo, quyền của trưởng tộc, thừa kế, kết hôn… là cơ sở để xây dựng và phát triển luật thành văn.

Thứ haicác đạo luật, bao gồm: (i) Các chiếu chỉ của vua; (ii) Luật 12 bảng; (iii) Quyết định của quan chấp chính, quan tòa. (iv) Các án lệ do các quan chấp chính, quan tòa áp dụng.

Thứ ba, hoạt động của các luật gia La Mã.

Thứ tư, hệ thống hóa luật dân sự La Mã của Hoàng đế Jusstinian

(Trong phạm vi của Đề tài, nhóm nghiên cứu chỉ giới hạn việc tìm hiểu, phân tích các giá trị đương đại của Bộ tổng luật Corpus juiris juris. Các nguồn khác của luật dân sự La Mã sẽ được tiếp tục nghiên cứu trong các công trình khoa học khác).

3. Về đối tượng điều chỉnh của luật dân sự La Mã

– Đối với quan hệ về tài sản: bắt nguồn từ luật về Vật (things) bao gồm tất cả các quyền có khả năng được định giá bằng tiền. Theo những công trình nghiên cứu của luật gia Gaius, luật về Vật (things) được chia làm 03 phần, gồm: chế định tài sản (Property), chế định thừa kế (Succession) và chế định nghĩa vụ (Obligations). Mà theo đó, tài sản (Property) và nghĩa vụ (Obligations) là hai loại tài sản (assets) hay về cơ bản chúng đều là Vật (things). Sự phân chia này đã được Justinian kế thừa và thể hiện qua Bộ tổng luật Corpus juiris juris, đây cũng là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của Civil Law.

– Đối với quan hệ nhân thân: luật dân sự La Mã điều chỉnh các quan hệ nhân thân phát sinh giữa công dân La Mã với nhau, giữa công dân La Mã với người không có quốc tịch La Mã, người không được coi là công dân La Mã (nô lệ) được thể hiện trong các quan hệ về quyền gia trưởng, về danh dự, uy tín, đổi họ của phụ nữ khi kết hôn… Quan hệ nhân thân do luật dân sự La Mã điều chỉnh mang tính chất phi tài sản không tuyệt đối vì nó còn bị kinh tế chi phối.

II. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT DÂN SỰ LA MÃ ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

1. Khái quát chung về pháp luật dân sự Việt Nam trước khi ảnh hưởng luật dân sự La Mã

Trước khi ảnh hưởng của luật dân sự La Mã, trong một thời gian dài, nhà nước phong kiến Việt Nam vẫn duy trì pháp luật với hình thức chủ yếu là tập quán pháp và mệnh lệnh của vua, cùng với luật lệ riêng ở mỗi vùng lãnh thổ của đất nước, phù hợp với lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến.

Tóm lại, kỹ thuật pháp lý thời kỳ này có những đặc điểm chủ yếu sau: thứ nhất, không có sự phân chia các ngành luật; thứ hai, có quan niệm hòa trộn giữa luật dân sự và hình sự; thứ ba, chịu ảnh hưởng của năm chế tài hình sự (hình phạt) của pháp luật Trung Hoa; và thứ tư, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân trị.

Với tính chất xã hội lúc bấy giờ, học thuyết pháp lý khó có cơ hội phát triển và không được nhắc tới như là một loại nguồn của pháp luật. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ kỹ thuật pháp lý La Mã, có thể thấy, mặc dù chưa tiếp cận với pháp luật dân sự La Mã, chưa có sự phân biệt rạch ròi luật công và luật tư, nhưng pháp luật trong thời kỳ này đã có những quy định có tính chất manh nha, gợi mở và có chút ít liên quan đến một vài vật quyền như quyền sở hữu tài sản, quyền hưởng dụng, quyền địa dịch, quyền cầm cố, thế chấp tài sản, các điều chỉnh về hợp đồng…

2. Khái quát chung về pháp luật dân sự Việt Nam sau khi ảnh hưởng luật dân sự La Mã

2.1. Trong xây dựng pháp luật

2.1.1. Về tư tưởng pháp luật

Từ năm 1858, thông qua sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp (luật dân sự Pháp có sự kế thừa luật dân sự La Mã, nhất là phần nói về nghĩa vụ và cấu trúc của bộ luật), mô hình pháp luật của nước ta đã bắt đầu có sự ảnh hưởng luật dân sự La Mã thông qua tư tưởng nền tảng luật dân sự Pháp với mức độ gần như là “sao chép” pháp luật dân sự Pháp.

Từ khi xây dựng Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, bên cạnh pháp luật Pháp vẫn được sử dụng như nguồn chính để đối chiếu, so sánh vì có một số ưu điểm, Việt Nam đã tham khảo thêm kinh nghiệm của một số mô hình và tư duy của pháp luật nước ngoài. Mặc dù vậy, dấu ấn luật dân sự La Mã vẫn rất đậm nét trong pháp luật dân sự Việt Nam, bởi pháp luật của các quốc gia mà Việt Nam tham khảo trong quá trình xây dựng BLDS đầu tiên năm 1995, cũng là những quốc gia có sự kế thừa và phát triển các quy định pháp luật bắt nguồn từ Luật dân sự La Mã.

2.1.2. Về kỹ thuật pháp điển

Nếu như trước khi kế thừa luật dân sự La Mã, pháp luật nước ta không có sự phân chia các ngành luật, thường bị hành chính hóa hoặc hình sự hóa trong các điều khoản của các bộ luật chung (như đã phân tích tại mục…), thì sau khi tiếp cận tư tưởng lập pháp của người La Mã, cụ thể là qua việc học hỏi những kỹ thuật pháp điển hóa của Pháp, Đức thì bên cạnh BLDS là luật điều chỉnh các vấn đề chung về dân sự, Việt Nam đã xây dựng được nhiều luật khác nhau để điều chỉnh những vấn đề theo lĩnh vực cụ thể. Trong các Bộ luật thường đi từ cái chung đến cái riêng, từ khái quát đến cụ thể, từ nguyên tắc chung đến các tình huống, lý luận thực tiễn.

2.1.3. Về cấu trúc

Sự ảnh hưởng của BLDS Pháp đối với BLDS năm 1995 chỉ ở cấp độ trung bình, nghĩa là chỉ ở mức tiếp thu tinh thần của Bộ luật thông qua những quy tắc được soạn thảo hoặc sắp xếp theo một cách khác, cách diễn đạt hoặc bố cục của BLDS Pháp không được giữ lại. Do đó, từ cấu trúc đến nội dung của BLDS năm 1995 cũng như các lần sửa đổi tiếp theo 2005, 2015 đều có sự đan xen các mô hình pháp luật

Trong quá trình soạn thảo BLDS năm 2005, 2015 cấu trúc của BLDS năm 1995 theo mô hình của Xô Viết, Nga, Đức, Nhật Bản vẫn được đánh giá cao bởi cấu trúc đó tạo nên cấu trúc chỉnh thể thống nhất của toàn Bộ luật, tạo cảm giác có sự rõ ràng, mạch lạc giữa các quy định trong Bộ luật.

2.2. Về đối tượng điều chỉnh

So sánh với pháp luật dân sự Việt Nam, có thể thấy có sự tương đồng về đối tượng điều chỉnh: cả luật dân sự La Mã và luật dân sự Việt Nam đều chứa đựng các quy định liên quan đến tài sản và nhân thân khá bao quát và cụ thể. Nếu luật dân sự La Mã điều chỉnh những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh giữa những công dân La Mã với nhau, giữa người có quốc tịch La Mã và người không có quốc tịch La Mã, giữa công dân và nô lệ… thì đối tượng điều chỉnh của luật dân sự Việt Nam là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh giữa các chủ thể của luật dân sự, nhằm đáp ứng lợi ích vật chất hoặc tinh thần cho chính chủ thể tham gia quan hệ đó cũng như các chủ thể khác.

2.3. Về nguồn của pháp luật

Cũng như pháp luật Pháp, Đức – các hệ thống pháp luật Civil Law, hình thành trên cơ sở luật dân sự La Mã, Việt Nam có hệ thống pháp luật thành văn. Hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đều được điều chỉnh bởi pháp luật thông qua các văn bản thành văn. Trong đó, nguồn luật quan trọng của pháp luật Việt Nam là Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền trung ương và địa phương. Ngoài ra, còn có các điều ước quốc tế, tập quán pháp và án lệ…

3. Khái quát một số chế định cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam dưới sự ảnh hưởng của luật dân sự La Mã

3.1. Sự ảnh hưởng của một số lý thuyết, học thuyết từ thời La Mã

Các lý thuyết, học thuyết có sự ảnh hưởng lớn đến kết cấu cũng như việc xây dựng các quy định cụ thể của các chế định cơ bản trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay (trong phạm vi Đề tài chỉ phân tích chế định tài sản, quyền sở hữu, chế định hợp đồng), có thể kể đến như: lý thuyết vật quyền, trái quyền, lý thuyết phân biệt vật quyền và trái quyền, học thuyết chiếm hữu, học thuyết quyền con người, học thuyết tự do ý chí, cụ thể như sau:

3.1.1. Ảnh hưởng lý thuyết vật quyền

Lý thuyết vật quyền từ thời La Mã cổ đại cho đến nay đều được coi là trung tâm, một trong những lý thuyết nền tảng trong pháp luật dân sự. Các học giả từ thời Hoàng đế Justinianus đã coi lý thuyết vật quyền, trái quyền là mẫu mực khi thiết kế điều luật. Bộ Corpus Juris Civilis cũng được cấu trúc dựa trên việc phân chia hai khái niệm của pháp luật dân sự thành vật quyền và trái quyền (quyền đối vật và quyền đối nhân). Ngày nay, vật quyền là một phần không thể thiếu trong hầu hết các BLDS. Ngay từ Bộ luật Napoleon (1804) – BLDS đầu tiên trên thế giới đến các Bộ luật của các quốc gia hiện nay cũng đều quy định về vật quyền.

Tại Việt Nam, Luật dân sự không sử dụng thuật ngữ vật quyền, tuy nhiên cách thiết kế các điều luật tại BLDS (rõ nét nhất là tại BLDS năm 2015 Phần thứ hai. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản) đã dựa trên những lý thuyết về vật quyền và những nguyên tắc cơ bản như: nguyên tắc luật định (numerus clausus); nguyên tắc vật quyền tuyệt đối; nguyên tắc công khai; nguyên tắc ưu tiên… (sẽ được phân tích cụ thể tại mục 2.1 Chương 2).

3.1.2. Ảnh hưởng lý thuyết trái quyền

Cũng như lý thuyết vật quyền, lý thuyết về trái quyền (còn gọi là quyền đối nhân) bắt đầu được xây dựng từ thời La Mã, được biết dưới tên gọi “jus ad rem” (quyền được chuyển giao một vật).

Tại Việt Nam, pháp luật dân sự hiện nay tuy không sử dụng thuật ngữ “trái quyền” mà dùng thuật ngữ “quyền yêu cầu”, nhưng các nội dung của trái quyền đã thể hiện khá rõ tại phần nội dung quy định về nghĩa vụ và hợp đồng trong BLDS.

3.1.3. Ảnh hưởng lý thuyết phân biệt vật quyền và trái quyền

Ảnh hưởng quan trọng mang tính chi phối đến các BLDS tại Việt Nam là học thuyết phân biệt vật quyền và trái quyền (doctrine of real and personal rights). Học thuyết này đã tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử luật học, có nguồn gốc từ luật tố tụng La mã cổ đại, sau đó được luật gia Gaius phát triển vào thế kỷ thứ hai. Học thuyết phân biệt vật quyền và trái quyền mặc dù được phát triển theo nhiều hướng khác nhau nhưng nhìn chung đều dựa vào đó phân chia thành luật tư thành hai nhóm chính là luật về tài sảnluật về hợp đồng.

Với sự ảnh hưởng của học thuyết phân biệt vật quyền và trái quyền, pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay đều tách biệt khá rõ ràng các chế định để có sự điều chỉnh cho phù hợp (thể hiện ở việc BLDS năm 2015 quy định về chế định quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản được quy định ở Phần thứ hai, trong khi chế định nghĩa vụ và hợp đồng được quy định tại Phần thứ ba. Nghĩa vụ và hợp đồng).

3.1.4. Ảnh hưởng học thuyết chiếm hữu

Theo học thuyết này, chiếm hữu bao gồm hai thành tố: “Corpus” và “animus”. “Corpus” là yếu tố vật chất, tạo nên sự kiểm soát thực tế của một người đối với một vật (như hành vi hưởng dụng, sử dụng, nắm giữ). “Animus” là yếu tố ý chí (TÂM LÝ – KIM SỬA), đó là ý định kiểm soát tài sản của người đang thực tế nắm giữ vật.

So với BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 chịu ảnh hưởng của học thuyết chiếm hữu rõ hơn thể hiện ở việc đã ghi nhận chiếm hữu là một tình trạng thực tế song song với chiếm hữu là một trong các quyền của quyền sở hữu (được phân tích cụ thể tại tiểu mục c mục 2.2.1 Chương 2).

3.1.5. Ảnh hưởng học thuyết quyền con người (the doctrine of human right)

Mặc dù thuật ngữ quyền con người chỉ chính thức xuất hiện sau chiến tranh thế giới thứ hai nhưng nội hàm của thuật ngữ này trên thực tế đã được biết đến qua các thuật ngữ như: “quyền tự nhiên” (lex naturalis) trong thời La Mã cổ, “luật tự nhiên” (jus naturale) trong luật dân sự La Mã và ở thời trung cổ, gồm khái niệm về quyền cơ bản, vốn có của mỗi người và không thể bị tước đoạt bởi pháp luật do con người tạo ra, có nguồn gốc từ jus naturale.

Giống với các quốc gia khác trong hệ thống Civil law, pháp luật Việt Nam coi trọng việc áp dụng luật thành văn, các tập quán hơn là án lệ. Theo Điều 6 BLDS năm 2015 về áp dụng tương tự pháp luật thì khi quan hệ phát sinh không có trong thỏa thuận và pháp luật cũng chưa có quy định thì sẽ ưu tiên áp dụng tập quán trước. Nếu không thể áp dụng được tập quán thì sẽ áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và sau cùng mới xét đến áp dụng án lệ, lẽ công bằng.

Bên cạnh đó, với mục tiêu cao nhất là bảo vệ quyền con người, luật dân sự Việt Nam, ccụ thể là BLDS năm 2015 đã vận dụng linh hoạt các học thuyết pháp lý để xây dựng các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự và ghi nhận chúng tại Điều 3. Đặc biệt, trong lĩnh vực hợp đồng, người ta thừa nhận rằng, ý chí là tự do và ý chí của các bên là yếu tố duy nhất hình thành hợp đồng và làm phát sinh các hậu quả pháp lý.

Bên cạnh các nguyên tắc trên, Điều 10 BLDS năm 2015 còn ghi nhận nguyên tắc cấm “lạm quyền”. Theo đó, các cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình để gây thiệt hại cho người khác, vi phạm các nghĩa vụ về nhân thân cũng như tài sản hoặc thực hiện các mục đích trái pháp luật khác.

3.2. Sơ lược nội dung một số chế định cơ bản trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ dưới sự ảnh hưởng của pháp luật dân sự La Mã

3.2.1. Thời kỳ Pháp thuộc (1858-1945)

Pháp luật dân sự Pháp chịu sự ảnh hưởng từ luật dân sự La Mã (cùng với BLDS Đức là hai bộ luật tiêu biểu cho việc tiếp nhận vật quyền vào trong luật dân sự). Vì vậy, ở thời kỳ Pháp thuộc, khi chính quyền thực dân-phong kiến chú trọng xây dựng luật pháp tại Việt Nam và luôn coi đó là một phương tiện cai trị hữu hiệu đã dẫn tới pháp luật thời kỳ này chịu ảnh hưởng từ quan niệm về vật quyền của pháp luật dân sự Pháp – được coi như đã gián tiếp chịu ảnh hưởng luật dân sự La Mã.

Pháp luật Việt Nam trong thời kỳ này đã ghi nhận khá cụ thể về tài sản, quyền sở hữu và các quyền tài sản khác. Nhìn chung, cấu trúc của các Bộ luật về dân sự của Việt Nam thời kỳ này mới là tập hợp hóa đơn giản các chế định của luật dân sự. Tuy vậy, cách lập pháp này được đánh giá là khá gần gũi với tư duy pháp lý của người Việt Nam lúc bấy giờ là không ưa trừu tượng hóa cao (kiểu pháp điển hóa này còn được giữ trong BLDS năm 1972 của Chính quyền Sài Gòn cũ).

3.2.2. Thời kỳ 1945 – 1975

Thời kỳ này Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai hệ thống chính trị khác nhau và vấn đề áp dụng văn bản pháp luật cũng khác nhau tại mỗi miền.

Như vậy, trải qua gần một thế kỷ, thông qua pháp luật Pháp các tư tưởng về vật quyền, trái quyền bắt nguồn từ luật dân sự La Mã đã in dấu ấn khá đậm ở Việt Nam. Nó xóa gần hết quan niệm cổ về pháp luật ở Việt Nam, thiết lập một kỹ thuật pháp lý, cách tư duy pháp lý và ý thức hệ mới. Tuy nhiên, có thể thấy, các BLDS ở Việt Nam vẫn có sự điều chỉnh thích hợp với xã hội Việt Nam, khi mà các quy tắc luân lý, phong tục tập quán còn chi phối khá mạnh đời sống con người.

3.2.3. Thời kỳ từ năm 1975 đến nay

Công cuộc đổi mới được khởi xướng năm 1986 đã tạo ra sự thuận lợi cơ bản hơn về tư duy pháp lý trong xây dựng và điều chỉnh các quan hệ dân sự. Đến Hiến pháp 1992, lần đầu tiên các hình thức sở hữu đã được ghi nhận cụ thể và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân. Trong bối cảnh đó, sau nhiều năm vẫn theo tư tưởng nền tảng luật dân sự Pháp, năm 1995 BLDS đầu tiên của Việt Nam được thông qua, là công trình pháp điển hóa đầu tiên tạo hành lang pháp lý điều chỉnh các quan hệ dân sự:

Khái quát pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ cho thấy, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, người Việt Nam không xa lạ với những quan niệm về vật quyền, trái quyền như: quyền sở hữu là quyền trực tiếp trên tài sản và mang tính tuyệt đối, độc quyền; quyền thuê đất dài hạn có tác dụng tạo ra quyền sở hữu của người thuê đối với tài sản tạo lập trên đất thuê… Hầu hết các chế định cơ bản trong luật dân sự La Mã, đặc biệt là những quy định về chế định tài sản; chế định nghĩa vụ hợp đồng (cùng với chế định thừa kế và chế định hôn nhân gia đình) đã có những ảnh hưởng đến quy định của pháp luật dân sự Việt Nam. Tuy nhiên, những chế định này không được tiếp nhận hoàn toàn một cách thụ động mà là sự tiếp thu có chọn lọc để phù hợp với xã hội Việt Nam, đồng thời loại bỏ những quy định lạc hậu trong tư pháp La Mã. Mặt khác, thông qua sự so sánh các quy định của pháp luật dân sự La Mã, các quy định trong luật cổ Việt Nam với các quy định mới trong BLDS năm 1995, 2005, 2015 cũng như các quy định tại các luật chuyên ngành thể hiện pháp luật dân sự Việt Nam cũng ngày càng có xu hướng tiếp nhận luật dân sự La Mã một cách sâu sắc hơn trong xây dựng hệ thống pháp luật dân sự.

CHƯƠNG 2.
NHẬN DIỆN GIÁ TRỊ ĐƯƠNG ĐẠI CỦA MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH CƠ BẢN TRONG LUẬT DÂN SỰ LA MÃ ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Tại Chương 2, nhóm nghiên cứu tập trung phân tích những giá trị của Luật dân sự La Mã được pháp luật dân sự Việt Nam (trọng tâm là BLDS năm 1995, 2005, 2015) kế thừa và phát triển. Các nội dung khác gồm: các quy định trong Luật dân sự La Mã tiến bộ, vượt thời đại, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam hiện nay nhưng luật dân sự Việt Nam chưa kế thừa hoặc kế thừa chưa đầy đủ sẽ được phân tích tại Chương 3 để có định hướng hoàn thiện pháp luật dân sự trong thời gian tới.

I. NHẬN DIỆN GIÁ TRỊ ĐƯƠNG ĐẠI CỦA CHẾ ĐỊNH TÀI SẢN, QUYỀN SỞ HỮU TRONG LUẬT DÂN SỰ LA MÃ ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

1. Chế định tài sản

1.1. Về khái niệm tài sản

Theo luật dân sự La Mã, phạm vi của vật (res) gồm: vật hữu hình (res corporales) là những thứ có sự tồn tại vật chất (là res theo nghĩa đơn giản nhất) và vật vô hình (res incorporales) là những thứ không có sự tồn tại vật chất (như quyền đòi nợ hoặc quyền hưởng dụng…). Điểm chung của tất cả những thứ này là chúng đều là tài sản (assets), là tất cả các hạng mục của tài sản (theo nghĩa rộng).

Bên cạnh đó, quyền sở hữu được đồng hóa với chính đối tượng của nó (là một vật cụ thể). Như vậy, vật (res) dù là vật chất hay không, dưới con mắt của những nhà làm luật dân sự La Mã, nó vẫn là một thứ vô hình, mang giá trị và được coi là các quyền.

Khi tài sản được hình dung như một quyền: trong luật dân sự La Mã, khi tài sản được tiếp cận dưới góc độ là một dạng quyền thì nó bao gồm quyền đối vật (vật quyền) và quyền đối nhân (trái quyền). Lý do luật dân sự La Mã phân loại quyền tài sản thành vật quyền và trái quyền mà không phân thành quyền tài sản và quyền sở hữu vì suy cho cùng quyền sở hữu tài sản cũng là quyền tài sản”.

So sánh với pháp luật hiện đại, có thể thấy, nền tảng Res (Things) trong pháp luật dân sự La Mã mang những giá trị phổ quát và đương đại cao, không chỉ đối với pháp luật Việt Nam mà còn đối với nhiều quốc gia theo truyền thống pháp luật Civil Law khác, cụ thể:

Luật dân sự Việt Nam mặc dù không đưa ra một khái niệm cụ thể đối với tài sản, mà chỉ định nghĩa theo phương pháp liệt kê nhưng cấu trúc tài sản (property) ngày nay vẫn giống như vật (things) của Luật dân sự La Mã – đều bao gồm hai nghĩa là: (i) đối tượng của quyền hoặc là (ii) các quyền có giá trị và định giá được bằng tiền. Đồng thời, các khái niệm về tài sản qua các BLDS cũng đã được dần hoàn thiện hơn (tuy vậy, cấu trúc tài sản ngày nay bị cho là hẹp hơn khái niệm Vật (things) bởi lợi ích chỉ là tài sản khi được pháp luật công nhận),

Khi tài sản được hình dung như một quyền: tại Việt Nam, ở góc độ lý luận, còn có nhiều cách hiểu chưa thống nhất về tài sản khi được hình dung như một quyền.

Như vậy, pháp luật về tài sản hiện nay mặc dù đã kế thừa khá nhiều từ vật (things) trong luật dân sự La Mã, nhưng với nhiều hạn chế còn tồn tại, khiến cách thức tiếp cận tài sản là vật hoặc quyền như trong luật dân sự La Mã vẫn chưa được vận dụng triệt để và chưa được hiểu thống nhất trong BLDS hiện hành của nước ta.

1.2. Về phân loại tài sản

Các cách phân loại cơ bản của luật dân sự La Mã được giữ tới ngày nay và được ghi nhận vào hệ thống pháp luật Việt Nam, điển hình như:

– Phân loại dựa theo cấu tạo của vật, theo tính chất hay theo đặc tính của vật.

– Phân loại theo chế độ pháp lý, cụ thể là cách phân loại thành động sản và bất động sản (thuộc nhóm phân loại chính).

Bên cạnh đó, cũng có một số cách phân loại tài sản thời La Mã không còn được ghi nhận trong luật dân sự Việt Nam, do luật ngày nay không coi đó là tài sản hoặc được phân loại thành các tài sản cụ thể hơn nữa để điều chỉnh trong các văn bản pháp luật khác nhau.

2. Chế định quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

2.1. Chế định quyền sở hữu và các quyền khác trong luật dân sự Việt Nam đã thể hiện được các đặc điểm của vật quyền

Chế định quyền sở hữu và các quyền khác được luật dân sự La Mã thừa nhận là vật quyền (trong đó quyền sở hữu là vật quyền chính, là cơ sở cho tất cả các vật quyền khác), bởi vậy nó mang các đặc điểm của vật quyền như: tính tuyệt đối, tính độc quyền và tính vĩnh viễn, tính công khai…

Tại Việt Nam, trong BLDS không nói tới khái niệm vật quyền, nhưng thông qua các điều luật có thể thấy nhà làm luật đã có quy định về vật quyền thông qua quy định quyền sở hữu và các vật quyền khác (quyền khác đối với tài sản), đồng thời việc ghi nhận các đặc tính của vật quyền được thể hiện rõ nét hơn qua các BLDS.

2.2. Các nội dung cụ thể của chế định quyền sở hữu và các quyền khác

2.2.1. Về quyền sở hữu (quyền đối vật của mình – jus in re propria)

a) Về khái niệm quyền sở hữu

Trong pháp luật dân sự La Mã, người La Mã dùng thuật ngữ dominium và sau này là thuật ngữ “proprietas” để chỉ quyền sở hữu. Pháp luật dân sự La Mã chỉ có quy định về quyền sở hữu đối với vật. Quyền sở hữu được chia thành quyritarian – quyền dành riêng cho công dân La Mã và bonitarian – quyền sở hữu của các cá nhân khác. Về khái niệm, luật dân sự La Mã không đưa ra một khái niệm chính xác về quyền sở hữu mà quyền sở hữu được hiểu là tập hợp một số quyền năng cụ thể của chủ sở hữu mà pháp luật quy định.

Tại Việt Nam, việc ghi nhận quyền sở hữu tài sản cũng giống như các nước thuộc hệ thống luật thành văn (civil law), đó là cách thể hiện về nguyên tắc tại Hiến pháp và được cụ thể hóa tại BLDS, các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Khái niệm quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam đã được mở rộng hơn so với khái niệm quyền sở hữu của pháp luật dân sự La Mã. Theo đó, quyền sở hữu vật (trong luật dân sự La Mã) được mở rộng thành quyền sở hữu tài sản nói chung (tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản) mà không chỉ là đối với vật như trong luật dân sự La Mã.

b) Về nội dung quyền sở hữu

Một là, quyền sở hữu được thể hiện qua sự liệt kê các quyền năng:

Vào thời kỳ cộng hòa, danh sách các quyền của chủ sở hữu bao gồm 05 quyền năng: (i) quyền sử dụng vật (ius utendi) là quyền khai thác những lợi ích kinh tế từ vật phù hợp với tính năng, tác dụng của vật đó; (ii) quyền thu nhận thành quả và lợi nhuận (ius fruendi) về nguyên tắc chủ sở hữu là người hưởng thành quả và lợi nhuận từ tài sản thuộc sở hữu của mình; (iii) quyền định đoạt vật (ius abutendi) bao gồm định đoạt số phận thực tế cũng như số phận pháp lý của vật(iv) quyền chiếm hữu vật (ius possidendi) và (v) quyền đòi lại vật (ius vidicandi).

Tại Việt Nam, pháp luật qua các thời kỳ (điển hình là BLDS năm 1995, 2005, 2015) đều có cách liệt kê các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản như Luật dân sự La Mã. Về số lượng quyền năng, số lượng các quyền năng thuộc quyền sở hữu trong pháp luật Việt Nam hiện hành (03 quyền) ít hơn trong luật dân sự La Mã (05 quyền).

Có thể thấy, nếu theo sự phân loại các thế hệ phát triển quyền sở hữu thì nội dung quyền sở hữu của luật dân sự Việt nam, cũng như của Liên bang Nga và của một số nước Đông Âu khác, đang ở vào thế hệ thứ tư “Mở rộng hơn khái niệm quyền sở hữu vật (thuộc thế hệ thứ ba) sang liệt kê các quyền năng cụ thể của chủ sở hữu tài sản nói chung (bao gồm vật, tiền và cả các tài sản vô hình)”.

Hai là, các quyền năng trong luật dân sự Việt Nam có sự kế thừa từ luật dân sự La Mã: mặc dù về số lượng quyền năng thuộc quyền sở hữu trong pháp luật Việt Nam ít hơn số lượng quyền trong luật dân sự La Mã, cũng như cách quy định về mặt hình thức có những điểm khác nhau nhưng nội hàm các quyền vẫn có sự tương đồng, ví dụ:

+ Quyền định đoạt trong luật dân sự Việt Nam kế thừa luật dân sự La Mã ở điểm đều bao gồm định đoạt số phận thực tế cũng như số phận pháp lý của vật, có nội hàm tương tự như abusus trong luật dân sự La Mã.

+ Luật dân sự Việt Nam có quyền đòi lại vật nhưng không quy định là một trong những cấu thành của quyền sở hữu như luật dân sự La Mã, mà đây là một trong những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu (được quy định tại Điều 175 BLDS năm 1995, Điều 256 BLDS năm 2005, Điều 166 BLDS năm 2015).

+ Đặc biệt, luật dân sự La Mã tách riêng quyền sử dụng tài sản (ius utendi) với quyền hưởng lợi từ tài sản (ius fruendi) với tư cách là các quyền năng độc lập. Còn theo luật dân sự Việt Nam, cụ thể là BLDS năm 1995, 2005, 2015, nội hàm của quyền sử dụng đã tổng hợp cả hai quyền năng là quyền khai thác công dụng của tài sản và quyền hưởng lợi từ tài sản:Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.

+ Luật Việt Nam cũng có quy định về hạn chế quyền sở hữu.

c) Về chiếm hữu

Tại Việt Nam, pháp luật dân sự có sự kế thừa luật dân sự La mã trong việc quy định về chiếm hữu như sau:

+ Pháp luật dân sự Việt Nam kế thừa luật dân sự La Mã ở việc phân biệt quyền chiếm hữu với quyền sở hữu, ghi nhận chiếm hữu là một tình trạng thực tế.

+ Pháp luật dân sự Việt Nam đã kế thừa nguyên tắc bảo vệ người chiếm hữu luật định (possessio civilis).

Tại Việt Nam, pháp luật dân sự cũng phân biệt hai loại chiếm hữu như sau:

+ Chiếm hữu có căn cứ pháp luật (tương tự như chiếm hữu hợp pháp trong pháp luật dân sự La Mã)

+ Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật, bao gồm hai loại sau đây: Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình (tương tự như chiếm hữu bất hợp pháp ngay tình trong pháp luật dân sự La Mã). Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình (tương tự như chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình trong pháp luật dân sự La Mã).

d) Về hình thức sở hữu

Luật dân sự La Mã có quy định về quyền sở hữu chung, sở hữu tập thể, sở hữu một phần, sở hữu riêng.

Pháp luật dân sự Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng hình thức sở hữu chung và sở hữu một phần, sở hữu tập thể như pháp luật dân sự La Mã. Tuy nhiên, pháp luật đã có những quy định rõ ràng, chi tiết và phong phú hơn về việc phân loại hình thức sở hữu do sự phát triển của điều kiện kinh tế, xã hội, các hình thức sở hữu ngày càng trở nên đa dạng đòi hỏi phải có những quy định phù hợp điều chỉnh.

e) Về căn cứ xác lập quyền sở hữu

Theo luật dân sự La Mã, quyền sở hữu như một vật quyền chỉ được xác lập theo các cách thức luật định. Nhiều phương thức là đặc thù của luật dân sự La Mã được bắt nguồn từ luật công dân ius civile, trong khi các phương thức khác mang tính phổ biến cao hơn có nguồn gốc từ luật vạn dân ius gentium (hay có thể hiểu là ius naturale). Các phương thức xác lập quyền sở hữu được phân loại thành xác lập quyền sở hữu nguyên sinh tự nhiên (Natural) theo ius gentium và căn cứ phái sinh (derived) theo ius civile:

(1) Các phương thức xác lập quyền sở hữu nguyên sinh (Natural): là những phương thức trong đó một người xác lập quyền sở hữu đối với một vật mà không có sự can thiệp hoặc phụ thuộc vào người khác.

(2) Các phương thức xác lập quyền sở hữu phái sinh (derived): là những căn cứ mà theo đó quyền sở hữu được chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác trên cơ sở thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu (mantipatio) hoặc chuyển giao vật (traditio). Đây được xem là căn cứ quan trọng nhất làm phát sinh quyền sở hữu. Đồng thời, phương thức phái sinh cũng là phương thức làm phát sinh quyền khác đối với tài sản (thông qua các hợp đồng cho thuê, cho mượn…).

Các căn cứ xác lập quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản trong luật dân sự La Mã ảnh hưởng khá rõ nét trong pháp luật dân sự Việt Nam, hầu hết các căn cứ xác lập đều được thể hiện và hoàn thiện hơn trong BLDS qua các thời kỳ. Như vậy có thể thấy những căn cứ xác lập quyền sở hữu được quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam về tư tưởng cơ bản là tiếp thu từ pháp luật dân sự La Mã, đặc biệt là những quy định về hình thành quyền sở hữu do thỏa thuận, chế biến, sáp nhập, trộn lẫn, tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu; tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên và xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.

f) Về căn cứ chấm dứt quyền sở hữu

Nhìn chung qua các thời kỳ, các căn cứ chấm dứt được quy định trong BLDS có sự tương đồng với luật dân sự La Mã, đồng thời có sự phân chia chi tiết các trường hợp tại: Điều 177 BLDS năm 1995, Điều 171 BLDS năm 2005, Điều 237 BLDS năm 2015.

+ Đối tượng của quyền sở hữu không còn.

+ Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với vật hoặc quyền sở hữu của chủ sở hữu bị tước bỏ.

2.2.2. Quyền khác đối với tài sản

Trong luật dân sự La Mã, quyền trên tài sản của người khác – dịch quyền (servitude) bao gồm dịch quyền thuộc người (personal servitudes), và dịch quyền thuộc vật (predial servitude) và các vật quyền bảo đảm.

aDịch quyền thuộc người (personal servitudes)

Là loại quan hệ mà một tài sản “gánh chịu dịch quyền hay dịch lụy” để phục vụ cho lợi ích của một người. Dịch quyền thuộc người lại được chia ra thành các loại vật quyền khác bao gồm: quyền hưởng dụng (usufruct), quyền thuê đất dài hạn (emphyteusis), quyền bề mặt (superficies):

– Quyền hưởng dụng (usufruct)

So sánh với quyền hưởng dụng trong luật dân sự La Mã có thể nhận thấy, quyền hưởng dụng được ghi nhận trong BLDS năm 2015 đã thể hiện được một số nội dung như: (1) Định nghĩa được ghi nhận tại Điều 257 BLDS năm 2015 đã chỉ rõ quyền hưởng dụng là một phân nhánh của quyền sở hữu, theo đó người hưởng dụng có được hai thành tố của quyền sở hữu là quyền sử dụng và quyền hưởng lợi. (2) BLDS năm 2015 cũng chỉ ra các đặc tính của quyền hưởng dụng, đó là: là vật quyền theo người (dịch quyền theo người), tính có thời hạn, tính tuyệt đối, tính bảo toàn giá trị của đối tượng quyền.

– Quyền thuê đất dài hạn (emphyteusis)

Trong luật Việt Nam, BLDS năm 1995, 2005 và 2015 không quy định trực tiếp quyền thuê đất dài hạn mà quyền này bước đầu được thể hiện một số khía cạnh tại Luật Đất đai năm 2013, theo đó, Luật đã quy định Nhà nước có quyền cho thuê đất, cụ thể đó là “việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất thông qua hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất” (khoản 8 Điều 3).

– Quyền bề mặt (superficies)

Tại Việt Nam, quyền bề mặt là một quyền mới được quy định tại BLDS (BLDS) năm 2015 (BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 đều không quy định về loại quyền này).

Quyền bề mặt có đầy đủ các thành tố của quyền sở hữu, điều đó có nghĩa là người có quyền bề mặt không chỉ có quyền sử dụng, quyền hưởng lợi mà còn có cả quyền định đoạt đối tượng của quyền bề mặt (trong khi quyền hưởng dụng hay quyền địa dịch chỉ có thể có một số thành tố nhất định của quyền sở hữu như quyền sử dụng hoặc quyền hưởng lợi). Nói cách khác, nếu như xem quyền hưởng dụng và quyền địa dịch như những lát cắt dọc của quyền sở hữu thì quyền bề mặt được xem như lát cắt ngang của quyền sở hữu và là ngoại lệ của nguyên tắc superficies solo cedit”. Do đó, có thể nói, cách mà BLDS năm 2015 điều chỉnh quyền bề mặt cũng tương tự như cách mà Bộ luật này điều chỉnh quyền sở hữu.

bDịch quyền thuộc vật (real servitude hay predialservitude) – hay còn gọi là quyền địa dịch

Trong luật dân sự La Mã, địa địch là một dạng vật quyền, là việc một bất động sản phục vụ một bất động sản thuộc quyền sở hữu của một người khác.

Ngày nay, địa dịch là chế định được ghi nhận trong BLDS nhiều nước như Pháp, Đức, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc. Tại Việt Nam, trước BLDS năm 1995, các văn bản pháp luật đã sử dụng khái niệm “địa dịch” thay vì sử dụng “quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề” và coi địa dịch là một loại vật quyền. Từ BLDS năm 1995 đã có ghi nhận về chế định quyền sử dụng hạn chế BĐS liền kề nhưng không sử dụng khái niệm quyền địa dịch hay dịch quyền như trước.

BLDS năm 2005 quy định về quyền sử dụng hạn chế BĐS liền kề tại Điều 273, tuy nhiên không có sự thay đổi nhiều so với BLDS năm 1995. Đến BLDS năm 2015 thì đã có những thay đổi cách nhìn về quyền sử dụng hạn chế BĐS liền kề. Lần đầu tiên BLDS đưa ra định nghĩa về quyền sử dụng hạn chế BĐS liền kề (Điều 245 tại Chương XIV. Quyền khác đối với tài sản). Việc quy định khái niệm về quyền đối với BĐS liền kề đã làm rõ hơn, khẳng định được quyền đối với BĐS liền kề là quyền được thực hiện trên một BĐS nhằm khai thác, phục vụ cho một BĐS khác.

Đồng thời, tên gọi có sự thay đổi từ “quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề” sang tên “quyền đối với bất động sản liền kề”. Với tên gọi như vậy, có thể hiểu quyền của chủ thể đối với bất động sản của người khác mang nghĩa rộng hơn, không chỉ bó buộc ở việc sử dụng bất động sản.

2.2.3. Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản

Trong pháp luật dân sự La Mã, hai biện pháp bảo vệ quan trọng nhất là:

  1. Biện pháp kiện đòi tài sản (rei vindication)
  2. Biện pháp kiện phủ định (actio ad exhibendum):

Tại Việt Nam, thể hiện rõ hơn về các biện pháp bảo vệ với tư cách là vật quyền, bao gồm:

– Kiện đòi lại tài sản.

– Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp.

– Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền).

2.2.4. Các biện pháp bảo đảm:

Trong thời La Mã, có 03 biện pháp bảo đảm phổ biến là bán đợ (fiducia cum creditore); cầm cố trao tay (pignus); thế chấp (hypotheca).

Trong luật dân sự Việt Nam, ngoài các biện pháp bảo đảm được quy định từ thời luật dân sự La Mã, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Luật dân sự Việt Nam đã dần hoàn thiện các biện pháp bảo đảm qua các lần sửa đổi BLDS.

Nhận xét chung:

BLDS năm 2015 đã chính thức ghi nhận 03 quyền khác đối với tài sản gồm quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt (Điều 245 đến Điều 273) và còn tồn tại những vấn đề lớn sau:

– Bộ luật chỉ giới hạn ở 03 quyền được thừa nhận như là “các quyền khác đối với tài sản”, một số quyền khác như: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với tài sản (quyền sử dụng nhà thuê, quyền sử dụng tài sản mượn, quyền sử dụng đất…), quyền sử dụng, cư dụng; quyền sử dụng nhà ở (trên lô đất thuộc sở hữu của tập thể); quyền chiếm hữu được thừa kế suốt đời đối với đất đai; quyền sử dụng đất vĩnh viễn; quyền quản lý kinh tế; quyền quản lý hoạt động và một số vật quyền bảo đảm (như bảo lưu quyền sở hữu, cầm giữ tài sản, quyền ưu tiên, nợ điền địa…) đang được thể hiện một số khía cạnh tại các văn bản pháp luật chuyên ngành khác (như Luật đất đai năm 2013, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Đầu tư công năm 2019;…) chưa thể minh định một cách rõ nét có phải là vật quyền hay không và thuộc loại vật quyền nào.

– Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như cầm cố, thế chấp, cầm giữ tài sản cũng chưa được khẳng định là vật quyền bảo đảm.

– Một số vật quyền hạn chế lần đầu tiên được ghi nhận tại BLDS năm 2015, nên có những vấn đề không được quy định đầy đủ, phù hợp. Quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự của nước ta cho thấy, một số chuyên gia pháp lý, các nhà lập pháp còn chưa chấp nhận thuật ngữ “vật quyền”, chưa quan tâm đến lý thuyết vật quyền. Từ việc chưa hiểu thấu đáo lý thuyết vật quyền nên nội dung các quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt chưa được quy định kỹ lưỡng, chưa thể hiện được hết nội dung chính của các quyền này.

II. NHẬN DIỆN GIÁ TRỊ ĐƯƠNG ĐẠI CỦA CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN SỰ LA MÃ ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

1. Hợp đồng là một trong những loại nguồn phát sinh nghĩa vụ

Trong luật dân sự La Mã, hợp đồng là một trong 4 loại nguồn phát sinh nghĩa vụ, theo đó “nghĩa vụ là ràng buộc pháp lý buộc chúng ta phải trả tiền cho một vật, phù hợp với pháp luật của thành quốc”, về chủ thể, quan hệ nghĩa vụ có hai bên chủ thể (bên có nghĩa vụ và bên có quyền).

Trong Tổng tập luật của mình, Jusstinien ghi nhận 04 loại nguồn phát sinh nghĩa vụ: hợp đồng; quan hệ pháp luật gần như là hợp đồng; hành vi trái pháp luật; hành vi gần như trái pháp luật. Trong đó, luật dân sự La Mã đặc biệt chú ý điều chỉnh quan hệ hợp đồng vì đây là quan hệ phổ biến do kinh tế hàng hóa phát triển mạnh.

Trong luật dân sự Việt Nam, hợp đồng cũng là một trong các căn cứ phát sinh nghĩa vụ, hay nói cụ thể hơn, hợp đồng là sự kiện pháp lý, là giao dịch dân sự nhằm tạo lập hệ quả pháp lý (quan hệ nghĩa vụ). Nếu như trong luật dân sự La Mã có 4 loại nguồn phát sinh nghĩa vụ thì luật dân sự Việt Nam quy định có 5 loại nguồn với tính chất tương tự luật La Mã: hợp đồng; hành vi pháp lý đơn phương; thực hiện công việc không có ủy quyền; chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật và căn cứ khác do pháp luật quy định.

(Trong phạm vi giới hạn của Đề tài, Nhóm nghiên cứu chỉ tập trung phân tích các quy định về hợp đồng mà không đi sâu nghiên cứu về nghĩa vụ).

2. Về nguyên tắc xây dựng pháp luật hợp đồng

+ Xây dựng trên cơ sở nguyên tắc tuân thủ hợp đồng

Pháp luật hợp đồng hiện nay tại các quốc gia trên thế giới và Việt Nam được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc rất quen thuộc từ thời La Mã cổ đại, đó là Pacta Sunt Servanda” (nguyên tắc tuân thủ hợp đồng). Với ý nghĩa việc áp dụng nguyên tắc này buộc các bên tham gia giao dịch khi đưa các cam kết hợp pháp, thì phải có trách nhiệm thực hiện các cam kết đó một cách thiện chí, trung thực, công bằng và hợp lý. Do đó, pháp luật hợp đồng không thể không thực hiện chức năng bảo đảm thực hiện các thỏa thuận giữa các bên đã được xác lập trong hợp đồng.

+ Hợp đồng hướng tới sự bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của các bên:

Trong nội dung của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên là bình đẳng với nhau, đây là điểm tiến bộ có thể được coi là vượt bậc trong tư tưởng của nhà làm luật thời La Mã cổ đại về sự công bằng giữa các cá nhân khi tham gia các quan hệ pháp luật. Còn trong hợp đồng cho vay mượn của luật dân sự La Mã hướng tới sự bình đẳng, bảo vệ quyền lợi ích các bên như nhau: “người vay phải trả lại vật tương tự.

Kế thừa tư duy của người La Mã, luật hợp đồng Việt Nam cũng hướng tới sự bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của các bên, ví dụ: pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên trong các trường hợp giao tài sản không đúng số lượng, giao vật không đồng bộ, giao tài sản không đúng chủng loại… Có thể thấy, pháp luật dân sự Việt Nam về cơ bản cũng được xây dựng dựa trên các nguyên tắc tiến bộ, triết lý sâu xa và cơ bản nhất của hợp đồng là tự do khế ước và bảo đảm bình đẳng giữa các bên.

3. Về khái niệm hợp đồng

+ Về việc sử dụng tên gọi và khái niệm “hợp đồng”

Khác với quyền sở hữu không có khái niệm cụ thể, luật dân sự La Mã đã đưa ra được định nghĩa về hợp đồng:“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập nghĩa vụ”  “là sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng thể hiện ý chí của ít nhất hai bên tham gia hợp đồng”. Quyền và nghĩa vụ dân sự ở đây thường liên quan đến tài sản. Dưới góc độ ứng xử (sự thỏa thuận – conventio, consensus) của các chủ thể, kinh tế học được coi là “khoa học của sự lựa chọn”.

Trong luật dân sự Việt Nam, khái niệm về hợp đồng có sự thay đổi qua các thời kỳ.

Đến BLDS năm 2015, thuật ngữ “hợp đồng dân sự” và được sửa đổi thành “hợp đồng” với định nghĩa là “hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”So sánh với luật dân sự La Mã, có thể thấy khái niệm “hợp đồng” trong BLDS năm 2015 được kế thừa gần như toàn bộ nội dung của luật dân sự La Mã.

4. Về giao kết hợp đồng

4.1. Về đề nghị giao kết hợp đồng

– Ý định giao kết hợp đồng rõ ràng, đề nghị có tính xác định là điều kiện giao kết hợp đồng

Theo luật dân sự La Mã, quá trình ký kết hợp đồng được gọi là quá trình hình thành hợp đồng, thông qua hành vi của các bên tham gia vào hợp đồng.

Để hợp đồng được hình thành các luật gia xây dựng mô hình hai giai đoạn hỏi đáp (đề nghị giao kết – trả lời). Trong đó, bên đưa ra sáng kiến ký kết hợp đồng được gọi là người đề nghị, bên còn lại sẽ được coi là người được đề nghị. Về nguyên tắc, pháp luật La Mã thừa nhận “việc giao kết hợp đồng do chính các bên tham gia hợp đồng trực tiếp thực hiện”, “hợp đồng chỉ có hiệu lực đối với những người tham gia” và “không cho phép ký kết hợp đồng thông qua đại diện”.

Theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành thì “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Như vậy, về cơ bản, pháp luật La Mã và pháp luật Việt Nam đều có điều kiện để coi một trường hợp là đề nghị giao kết hợp đồng khi ý định giao kết hợp đồng rõ ràng, đề nghị có tính xác định và được truyền đạt tới bên được đề nghị một cách cụ thể.

– Về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng

+Hợp đồng có thể được ký kết qua người đại diện: cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội, lãnh thổ La Mã ngày càng được mở rộng, nhu cầu về thương mại ngày càng lớn, bởi vậy, gia chủ không thể tự mình ký kết các hợp đồng dẫn đến việc hình thành chế định đại diện trong ký kết hợp đồng. Nhưng việc đại diện ký kết hợp đồng chỉ được công nhận trong những hợp đồng riêng biệt. Trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay, việc ký kết hợp đồng qua người đại diện cũng được quy định khá chi tiết.

+ Về đối tượng được đề nghị giao kết hợp đồng: ngày nay, để đáp ứng với sự phát triển kinh tế xã hội và sự đa dạng trong giao kết hợp đồng, hướng đến lượng đối tác giao kết hợp đồng lớn (như hình thức đề nghị giao kết qua mạng xã hội, các hình thức thu hút số đông học sinh tham gia các chương trình đào tạo…), khoản 1 Điều 386 BLDS năm 2015 đã mở rộng đối tượng được đề nghị giao kết hợp đồng là “công chúng”. Đây cũng là một trong những điểm khác với pháp luật La Mã và cũng là điểm mới so với BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005.

4.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Pháp luật dân sự La Mã cho phép người bán hủy bỏ việc mua bán nếu anh ta nhận được lời đề nghị tốt hơn trong một ngày nhất định. Với điều kiện lời đề nghị phải là sự thật chứ không phải giả tạo.

Khác với pháp luật La Mã, pháp luật Việt Nam có quy định khắt khe và hạn chế quyền của người bán hơn, cụ thể tại Điều 386 BLDS năm 2015.

4.3. Về thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực

Ở thời La Mã, chưa có quy định chung về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mà được quy định trong từng loại hợp đồng chi tiết. Theo đó, đối với hợp đồng thực tế, hiệu lực của hợp đồng được tính từ thời điểm chuyển giao tài sản (ví dụ: hợp đồng vay nợ có hiệu lực pháp luật kể từ khi chuyển tài sản cho vay, hợp đồng cho mượn phát sinh nghĩa vụ của bên mượn khi đã nhận được tài sản mượn, hợp đồng gửi giữ phát sinh nghĩa vụ của các bên kể từ khi chuyển giao tài sản gửi giữ); đối với hợp đồng ưng thuận, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là khi các bên đã ký kết vào hợp đồng.

Luật dân sự Việt Nam đã kế thừa các quy định trong luật dân sự La Mã, đồng thời có sự mở rộng hơn các thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, cụ thể: thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác định theo từng thời điểm khác nhau tùy thuộc vào hình thức giao kết của hợp đồng hoặc theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.

5. Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng

Trong luật dân sự La Mã, không phải tất cả các hợp đồng đã ký kết đều có hiệu lực pháp lý (hợp pháp). Hợp đồng được coi là hợp pháp khi đáp ứng các điều kiện sau đây: chủ thể có năng lực pháp luật; có sự thỏa thuận; đáp ứng nội dung và hình thức của hợp đồng. Cụ thể:

5.1. Điều kiện về chủ thể

Luật dân sự Việt Nam và luật dân sự La Mã đều ghi nhận chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, nhưng BLDS Việt Nam hiện đại đã có quy định về chủ thể rộng hơn và cụ thể hơn luật dân sự La Mã:

Thứ nhất, về chủ thể là cá nhân, mặc dù có sự khác nhau về quy định độ tuổi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được phép tham gia vào các giao dịch dân sự nhưng nhìn chung, hệ thống pháp luật dân sự La Mã và hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam đều căn cứ vào độ tuổi, sự phát triển về khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của cá nhân phù hợp với từng thời kỳ để chia thành các mức độ năng lực hành vi dân sự sau: năng lực hành vi dân sự đầy đủ, năng lực hành vi dân sự một phần, không có năng lực hành vi dân sự.

Thứ hai, về chủ thể là pháp nhân, luật dân sự La Mã và luật dân sự Việt Nam đều chưa xây dựng được thành công khái niệm “pháp nhân”.

5.2. Điều kiện về ý chí

Trong luật dân sự La Mã, điều kiện để hợp đồng có hiệu lực là phải có sự thỏa thuận (conventio, consensus).

Thứ nhấtphải thống nhất giữa ý chí chung với bày tỏ ý chí chung (các trường hợp do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép mà giao kết hợp đồng đều vi phạm điều kiện này).

Thứ hai, về hình thức của các thỏa thuận: Trong luật dân sự La Mã, các điều khoản phản ánh ý chí tự do, tự nguyện của chủ thể tham gia hợp đồng phải là lời hay, ngôn ngữ hoa mỹ rất hình thức. Nếu thiếu ngôn ngữ hoa mỹ của chủ thể, hợp đồng đó có thể không có hiệu lực thi hành.

5.3. Điều kiện về nội dung

Thứ nhất, nội dung của hợp đồng phải rõ ràng, mang tính xác định, không vi phạm điều cấm của pháp luật

Thứ hai, hành vi, công việc phải thực hiện được

Thứ ba, về kết cấu các điều khoản trong hợp đồng: các luật gia La Mã đã chia thành hai loại điều khoản: điều khoản cơ bản và điều khoản thông thường.

5.4. Điều kiện về hình thức của hợp đồng

Ở thời kỳ La Mã, hình thức của hợp đồng cũng được coi là một trong những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Tuy nhiên, không có quy định cụ thể về việc như thế nào là vi phạm điều kiện về hình thức của hợp đồng. Pháp luật La Mã chỉ quy định rõ ràng về hình thức của một số loại hợp đồng trong khi phân loại hợp đồng. Do đó, có thể hiểu, những loại hợp đồng được pháp luật La Mã quy định rõ hình thức thì khi không đáp ứng yêu cầu về hình thức thì được coi là vi phạm về hình thức dẫn đến không đáp ứng đủ điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.

Kế thừa pháp luật La Mã, theo BLDS Việt Nam, hình thức của hợp đồng chỉ được coi là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có quy định.

6. Về phân loại hợp đồng

Một là, không có quy định chung để điều chỉnh tất cả các hợp đồng

Nhờ công lao của Hoàng đế Justinian và các luật gia La Mã dưới thời của ông, chế định hợp đồng ban đầu chỉ là tập hợp những hợp đồng cụ thể đã dần dần trở thành một chế định pháp lý thực sự với sự phân loại tương đối chặt chẽ và đầy đủ. Tư pháp La Mã không có quy định để điều chỉnh chung cho tất cả hợp đồng phát sinh trên thực tế, mà pháp luật liệt kê các hợp đồng phổ biến để điều chỉnh từng quan hệ hợp đồng.

So với luật hợp đồng trong tư pháp La Mã, luật hợp đồng trong luật dân sự Việt Nam đã xây dựng được quy định chung để điều chỉnh cho tất cả hợp đồng phát sinh trên thực tế.

Hai là, các loại hợp đồng được điều chỉnh khá cụ thể

Nếu so các loại hợp đồng trong luật dân sự La Mã với BLDS năm 2005 thì chỉ thấy thiếu một loại hợp đồng duy nhất, đó là hợp đồng bảo hiểm (đến BLDS năm 2015, hợp đồng bảo hiểm được tách ra khỏi BLDS và chỉ còn được quy định trong Luật kinh doanh bảo hiểm (năm 2000, sửa đổi năm 2010, 2014, 2022), hiện nay BLDS năm 2015 chỉ còn quy định về 15 loại hợp đồng thông dụng với tên gọi giống hoặc là biến thể của các hợp đồng dân sự thời La Mã).

Cũng như luật dân sự La Mã, ngoài việc quy định chi tiết về một số tiêu chí đặc thù của từng loại hợp đồng thông dụng thì BLDS năm 2015 còn quy định chi tiết về các đặc điểm chung của các loại hợp đồng dựa theo quy trình giao kết, thực hiện hợp đồng như thực hiện hợp đồng; sửa đổi, chấm dứt hợp đồng

7. Về hợp đồng vô hiệu

Trong luật dân sự La Mã, hợp đồng vô hiệu khi vi phạm các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng: như điều kiện về chủ thể, ý chí, mục đích và nội dung hay hình thức của hợp đồng.

Luật dân sự Việt Nam có sự kế thừa rõ nét về các trường hợp dẫn đến hợp đồng vô hiệu trong luật dân sự La Mã, đồng thời mở rộng và chi tiết thêm các trường hợp vô hiệu (từ Điều 122 đến Điều 130 BLDS năm 2015). Trong đó các trường hợp dẫn đến hợp đồng vô hiệu được kế thừa từ luật dân sự La Mã, điển hình là vô hiệu do nhầm lẫn và vô hiệu do không tuân thủ hình thức vẫn còn một số bất cập gây khó khăn cho người áp dụng và thực thi pháp luật.

8. Về sửa đổi, chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng:

Luật dân sự La Mã không có quy định về sửa đổi hợp đồng mà chỉ có quy định về hủy bỏ, chấm dứt hợp đồng và chỉ được đặt ra đối với một số loại hợp đồng riêng.

Về trường hợp hủy bỏ hợp đồng: Luật La Mã không chấp nhận việc sửa đổi hợp đồng, vì vậy nếu các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng bị thay đổi thì hợp đồng sẽ bị hủy bỏ.

Về các trường hợp được chấm dứt hợp đồng: trong từng loại hợp đồng, luật dân sự La Mã quy định các trường hợp cụ thể được chấm dứt hợp đồng, ví dụ như: hợp đồng thuê tài sản chấm dứt khi: (i) hết hạn hợp đồng thuê, (ii) hợp đồng bị đình chỉ theo yêu cầu của một bên khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình dẫn đến gây thiệt hại cho bên yêu cầu chấm dứt hợp đồng; thứ hai, hợp đồng ủy quyền chấm dứt khi: (i) một bên tự chấm dứt hợp đồng và (ii) một bên chết.

Như vậy, có thể thấy, các căn cứ chấm dứt hợp đồng trong luật dân sự La Mã khá chi tiết và vẫn in đậm dấu ấn trong BLDS Việt Nam qua các thời kỳ. Còn căn cứ hủy bỏ hợp đồng có khác biệt so với luật dân sự La Mã, cụ thể: Về điều kiện để hủy bỏ hợp đồng không phải là do không chấp nhận các điều khoản bị thay đổi như trong luật dân sự La Mã, mà BLDS năm 2015 quy định do một bên vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận; hoặc một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng.

  1. Về xử lý vi phạm hợp đồng

Một là, về căn cứ xác định vi phạm

Trong luật dân sự La Mã, khi chủ thể (1 trong các bên) thực hiện không đúng thời hạn, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng thì sẽ xuất hiện trái vụ. Bên vi phạm hợp đồng – gọi là “thụ trái” phải bồi thường. Kế thừa quy định của luật dân sự La Mã, BLDS Việt Nam cũng quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ là bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.

Tuy nhiên, nghĩa vụ dân sự là một khái niệm rộng bao gồm nghĩa vụ theo hợp đồng, nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản, nghĩa vụ trả thưởng, thực hiện nghĩa vụ không có ủy quyền, nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng… Mỗi loại nghĩa vụ này có những phương thức thực hiện riêng. Do đó, hiện nay BLDS năm 2015 qui định căn cứ chung về trách nhiệm dân sự cho tất cả các nghĩa vụ như vậy sẽ không phù hợp.

Hai làhậu quả pháp lý của hành vi vi phạm

Hậu quả pháp lý theo pháp luật La Mã và BLDS Việt Nam về cơ bản đều yêu cầu khôi phục tình trạng ban đầu, bồi thường thiệt hại.

Trong khi đó, BLDS năm 2015 không xác định rõ mức căn cứ để bồi thường thiệt hại và giá trị bồi thường thiệt hại như trong pháp luật La Mã. BLDS Việt Nam có sự tiến bộ thể hiện tính nhân văn hơn đó là xác định thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.

Thông qua sự so sánh, đối chiếu, có thể thấy, khái niệm cũng như các quy định khác về hợp đồng theo ghi nhận của BLDS Việt Nam rộng hơn luật dân sự La Mã. Điều này là hoàn toàn hợp lý, bởi, BLDS Việt Nam ra đời sau, có sự học hỏi, kế thừa của pháp luật dân sự La Mã nói riêng và pháp luật dân sự thế giới nói chung, cùng với đó, sự thay đổi về hoàn cảnh (tình hình kinh tế – chính trị – xã hội) làm xuất hiện thêm nhiều loại hợp đồng cần được pháp luật điều chỉnh.

CHƯƠNG 3. NHU CẦU KẾ THỪA CÁC GIÁ TRỊ CỦA LUẬT DÂN SỰ LA MÃ VÀ KIẾN NGHỊ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, HOÀN THIỆN

I. ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Trong hệ thống thể chế hiện hành, thể chế phát triển kinh tế – xã hội, cụ thể là thể chế về tài sản, sở hữu là nhân tố cốt lõi của đường lối đổi mới, được coi là thuộc tính của kinh tế thị trường, đồng thời là công cụ hữu hiệu để điều tiết thị trường đạt sự ổn định một cách bền vững, nâng cao đầu tư dài hạn. Điều này đã được khẳng định trong quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, điển hình như:

+ Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2002 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh. Xác định rõ trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu nhà nước và các chủ sở hữu khác, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu…”.

+ Kết luận số 103-KL/TW, ngày 29/9/2014 của Bộ Chính trị về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề thể chế sở hữu và quyền tài sản có quan hệ chặt chẽ: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp… Thể chế hóa quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được xác lập trong Hiến pháp năm 2013… Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền sở hữu, nhất là các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế”

+ Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 12 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã định hướng “Thể chế hóa đầy đủ và bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản” (Mục III.2).

+ Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã đưa ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp có nội dung: “Thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013… bảo đảm hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản”.

+ Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 15/01/2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực kinh tế đã xác định nhiệm vụ, giải pháp Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để khơi thông, giải phóng tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn lực của đất nước”.

+ Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đề ra quan điểm chỉ đạo là đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần có cách tiếp cận mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo”; từ đó đề ra một trong các chủ trương là “Sớm ban hành khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới hình thành từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.

+ Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ quan điểm “Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật”,“cải cách thể chế về quyền tài sản” và Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, kinh tế hợp tác, hợp tác xã, các yếu tố, các loại thị trường”…

+ Đối với vấn đề sở hữu đất đai, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022) về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao đã khẳng định quan điểm then chốt “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”, “quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt nhưng không phải là quyền sở hữu; quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được pháp luật bảo hộ” “quy định chế độ sử dụng đất xây dựng công trình trên không, công trình ngầm…” với nhiều nhiệm vụ, giải pháp hết sức quan trọng, trong đó có trọng tâm là sửa đổi, hoàn thiện Luật đất đai năm 2013.

Có thể thấy, các chủ trương, định hướng nêu trên của Đảng đã khẳng định việc huy động và khai thác giá trị tài sản sẽ là nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Tuy nhiên, qua rà soát sơ bộ cho thấy, bên cạnh các kết quả đạt được (chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng; các quyền và nghĩa vụ về tài sản được thể chế hóa tương đối đầy đủ, các quy định về hợp đồng đáp ứng các nhu cầu giao dịch của xã hội…), thì các quy định pháp luật về sở hữu, quyền tài sản, hợp đồng trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập, tạo thành điểm nghẽn trong xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế, là rào cản làm suy giảm động lực phát triển đất nước. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã nhận định:“quyền sở hữu tài sản chưa được bảo đảm thực thi nghiêm minh”. Nhất là đặt trong bối cảnh và đòi hỏi ngày càng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thể chế liên quan đến quyền sở hữu và quyền tài sản, hợp đồng cũng bộc lộ một số bất cập, ví dụ như: các quy định mang tính tiến bộ về quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, hợp đồng chưa được chuyển tải hay quy định chi tiết trong các văn bản pháp luật chuyên ngành; cơ chế xác lập, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm cũng như thực thi quyền khác đối với tài sản chưa hoàn thiện, chưa làm rõ giới hạn của quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản. Một số loại tài sản mới, phi truyền thống đã xuất hiện song vẫn chưa có các quy định pháp luật cụ thể, phù hợp để xử lý, dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn nhiều lúng túng, bất cập… Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay pháp luật hợp đồng của Việt Nam chưa tương thích với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế. BLDS và các văn bản pháp luật về hợp đồng chưa giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật hợp đồng với điều lệ, quy chế của doanh nghiệp, cũng như các điều kiện giao dịch mà các doanh nghiệp tự ban hành… dẫn đến việc thi hành pháp luật còn gặp một số vướng mắc “thực thi pháp luật chưa hiệu quả, chấp hành pháp luật có nơi chưa nghiêm, việc giám sát chưa chặt chẽ, chi phí tuân thủ pháp luật còn cao”.

Vì vậy, việc tiếp tục quán triệt và thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng là nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm cụ thể hóa những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được ghi nhận trong Hiến pháp về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh; tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền dân sự của các cá nhân, tổ chức trong xã hội; thể chế hóa quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân… cũng như sẵn sàng công nhận, bảo vệ các tài sản mới phi truyền thống hình thành từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm khuyến khích đổi mới, sáng tạo nhưng vẫn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan.

II. QUAN ĐIỂM VỀ NHU CẦU KẾ THỪA CÁC GIÁ TRỊ CỦA LUẬT DÂN SỰ LA MÃ TRONG XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Trong hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc gia nào, tại thời điểm nào cũng bao hàm trong nó tính kế thừa. Nói cách khác – tính kế thừa là thuộc tính tự thân của PL. Tìm hiểu tính kế thừa trong pháp luật tại thời điểm được ban hành cho thấy nó đã hội tụ được những giá trị chung của xã hội mang tính chất phổ biến rộng rãi cũng như tiếp nhận các kinh nghiệm lập pháp từ trước đó để lại.

Tại Việt Nam, trong thời gian qua, hệ thống pháp luật dân sự đang ngày càng hoàn thiện với nhiều luật chuyên ngành điều chỉnh, góp phần giảm thiểu gánh nặng cho BLDS trong giải quyết những quan hệ dân sự, từ đó tạo nền tảng tốt hơn để phát huy vai trò của BLDS là luật chung của hệ thống luật điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng của các chủ thể (hệ thống luật tư).

Tuy lịch sử phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam vẫn còn rất mới so với các nước khác trên thế giới: BLDS đầu tiên của Nhà nước Việt Nam mới được thông qua năm 1995 và được sửa đổi, thay thế năm 2005, 2015, nhưng các Bộ luật đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa tư duy của luật dân sự La Mã (như đã phân tích tại Chương 2). Qua thực tiễn thi hành cho thấy, dù còn một số hạn chế, bất cập nhưng nhìn chung pháp luật dân sự La Mã có sự phù hợp nhất định với tư duy xây dựng pháp luật hiện nay ở Việt Nam. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các giá trị của luật tư La Mã, cũng như các khái niệm của luật dân sự, tư tưởng lập pháp, BLDS của các quốc gia cũng có sự kế thừa pháp luật dân sự La Mã (như Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Nhật Bản…) là rất cần thiết nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay, nhất là trong bối cảnh chưa có một mô hình về hệ thống pháp luật rõ ràng, các đạo luật học tập kinh nghiệm nước ngoài và kinh nghiệm lịch sử còn thiếu chọn lọc, dẫn đến tình trạng các đạo luật khác nhau bị ảnh hưởng bởi pháp luật của các nước khác nhau, khiến các đạo luật không ăn nhập với nhau, mâu thuẫn, chồng chéo.

Trong đó, đối với luật dân sự La Mã nói riêng, thông qua những công trình nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhà quản lý đều thống nhất cho rằng, mặc dù khác nhau về lịch sử kinh tế xã hội, thể chế chính trị và đã được ban hành cách đây hàng ngàn năm, nhưng luật dân sự La Mã có rất nhiều giá trị đương đại mà chúng ta đã, đang và cần tiếp tục kế thừa, tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật dân sự trong thời gian tới, cụ thể:

(i) Cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng lý luận, các học thuyết từ thời La Mã, (trong đó nổi bật là học thuyết vật quyền, trái quyền), thể hiện thông qua việc hoàn thiện các chế định tài sản và quyền sở hữu, chế định hợp đồng, bởi các lý do sau:

+ Các BLDS trước đây của Việt Nam nói chung và BLDS năm 2015 nói riêng cũng như tại các văn bản pháp luật chuyên ngành đều đã có những quy định cụ thể về vật quyền, trái quyền, tuy nhiên chưa thực sự đầy đủ, vì vậy, cần tiếp tục ghi nhận các vật quyền, trái quyền đã và đang tồn tại khách quan trong nền kinh tế vào trong hệ thống pháp luật, từ đó xác định đúng bản chất pháp lý của chúng nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật, tạo điều kiện để các quyền này phát huy hiệu quả trong thực tiễn.

+ Các thuật ngữ pháp lý như vật quyền, trái quyền từ lâu đã trở thành ngôn ngữ pháp lý chung của nhân loại. Chủ trương hội nhập quốc tế của Nhà nước ta chỉ có thể được thực hiện một cách thuận lợi khi trong lĩnh vực pháp luật, trong đó có lĩnh vực pháp luật dân sự, thương mại, Việt Nam nói tiếng nói chung của nhân loại. Việc Việt Nam tiếp tục sử dụng những thuật ngữ pháp lý của riêng mình chắc chắn sẽ làm phương hại đến quá trình hội nhập quốc tế của Nhà nước ta.

(ii) Sự lựa chọn mô hình La Mã trong việc xây dựng chế độ pháp lý về tài sản tỏ ra phù hợp với các nước với nền hệ thống pháp luật đang trong quá trình chuyển đổi và có ảnh hưởng Civil Law từ quá trình thuộc địa hóa (trong đó có Việt Nam). Cần thừa nhận rằng Việt Nam không phải là một nước có truyền thống lâu đời về khoa học luật và chưa đủ sức tự mình xây dựng học thuyết riêng, đặc thù làm nền cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật). Trong điều kiện đó, việc tìm kiếm một mô hình đã có sẵn và đang vận hành tốt để vận dụng vào hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam là giải pháp tốt nhất.

(iii) Việc tham khảo các giá trị của pháp luật dân sự La Mã có thể giúp Việt Nam hoàn thiện các chế định mà pháp luật hiện hành còn có nhiều hạn chế, bất cập, khoảng trống: (1) hoàn thiện, bổ sung quy định về các loại tài sản trong bối cảnh phát triển hiện nay và tương lai; (2) hoàn thiện quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản (quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt) đảm bảo đúng nguyên lý vật quyền; (3) nghiên cứu bổ sung, ghi nhận chính thức một số quyền khác đối với tài sản (ngoài 3 quyền đã được chính thức ghi nhận là quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt); (4) nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về hợp đồng. Theo đó, ngoài BLDS, một số đạo luật chuyên ngành có liên quan cũng cần sớm được sửa đổi, bổ sung như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Thương mại…

Để đạt được những yêu cầu này, khi nghiên cứu kinh nghiệm lịch sử pháp luật dân sự La Mã cần phải thực hiện với một số yêu cầu sau:

+ Học hỏi trên tinh thần tôn trọng lịch sử, khách quan, tránh áp đặt, khiên cưỡng. Không phủ nhận sạch trơn, mà tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa, các giá trị của luật dân sự La Mã phù hợp với đặc thù của Việt Nam, bảo đảm được định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

+ Quá trình tiếp nhận cần có sự nghiên cứu công phu, nghiêm túc với những đối chiếu, so sánh về mặt lý luận với thực tiễn thi hành. Đồng thời, cần cẩn trọng để tránh sự thiếu thống nhất trong việc tiếp nhận, xây dựng pháp luật khi học hỏi quá nhiều nền pháp luật khác nhau và cần phải biết kết hợp với những giá trị pháp luật truyền thống của Việt Nam.

III. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH CƠ BẢN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Từ những phân tích những giá trị đương đại của luật dân sự La Mã đối với pháp luật dân sự Việt Nam tại Chương 2, đánh giá về một số khó khăn, vướng mắc, cho thấy một số nội dung tiến bộ, các giá trị vượt thời đại của luật dân sự La Mã chưa thực sự được ghi nhận trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam (ví dụ như: nội dung quyền sở hữu, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt chưa thực sự đúng với nội hàm của các quyền này theo lý thuyết chung; pháp luật chưa ghi nhận các quyền có tính chất trực tiếp của chủ thể không phải chủ sở hữu đối với tài sản, pháp luật về hợp đồng còn nhiều bất cập…) làm cho ý nghĩa thúc đẩy tối đa giá trị tài sản trong giao dịch dân sự như định hướng của Đảng, Nhà nước chưa được phát huy. Trong bối cảnh, yêu cầu đặt ra và quan điểm, định hướng của Đảng về hoàn thiện thể chế về tài sản, quyền sở hữu, hợp đồng cho thấy hệ thống pháp luật dân sự (gồm BLDS năm 2015, các văn bản luật trong một số lĩnh vực cụ thể, văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành) cần có sự hoàn thiện để tiếp tục vận dụng sâu hơn các triết lý, giá trị của luật dân sự La Mã đã được công nhận chung. Nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị sau:

  1. Một số kiến nghị về chế định tài sản

Một là, về khái niệm tài sản: Ngày nay, mặc dù vật (things) trong luật dân sự La Mã và tài sản (property) theo pháp luật hiện nay gần như là tương đồng, nhưng do pháp luật dân sự Việt Nam hiện mới quy định tài sản theo kiểu liệt kê, đồng thời không quy định rõ tiêu chí chung để xác định một đối tượng cụ thể nào đó là tài sản khiến cách thức tiếp cận tài sản là vật hoặc quyền như trong luật dân sự La Mã vẫn chưa được vận dụng triệt để và chưa được hiểu thống nhất trong BLDS hiện hành của nước ta.

Vì vậy, có thể cân nhắc một trong hai phương án như sau:

Phương án 1. Không quy định về khái niệm tài sản

Các văn bản pháp luật hiện hành chỉ cần quy định về vật và quyền, đây là hai nhánh chính của tài sản, quy định cụ thể về các dạng tồn tại của vật và quyền vì chúng sẽ là đối tượng trong các giao dịch dân sự. Còn khái niệm tài sản nên để cho các học giả chuyên ngành luật định nghĩa dưới khía cạnh lý luận bởi tài sản là một khái niệm có tính bao quát, trừu tượng và luôn thay đổi theo hoàn cảnh. Trên cơ sở đó, nên hạn chế dùng các cụm từ tài sản khi quy định về đối tượng trong các giao dịch trong BLDS.

Bởi cụm từ tài sản được gắn vào sau hầu hết các hợp đồng quy định trong BLDS như hợp đồng mua bán, thuê, thế chấp, cầm cố… trong khi đó, tài sản lại bao gồm vật và quyền tài sản. Đối tượng của mỗi hợp đồng đều cần được xác định cụ thể theo thỏa thuận của các bên và theo bản chất của từng loại hợp đồng, nên khi gắn đối tượng của hợp đồng và tên của hợp đồng thì cần có sự chính xác, nếu không thì để cho chính các chủ thể lựa chọn. Ví dụ, pháp luật của Pháp, Nhật Bản đều đặt tên cho biện pháp thế chấp là thế chấp bất động sản, cầm cố động sản, thế chấp quyền đòi nợ… Phương án 1 này cũng là hướng đi của Nhật Bản, Đức: trong BLDS của các nước này chỉ quy định về vật, vật quyền, trái vụ mà không có quy định về tài sản. Cách tiếp cận này cũng phù hợp với lý luận về vật quyền và xu hướng pháp luật các nước trong việc quy định về tài sản – đối tượng của vật quyền.

Phương án 2. Xây dựng khái niệm về tài sản và có các điều khoản để giải thích cụ thể về các thuật ngữ chứa đựng trong khái niệm đó

Hiện nay, BLDS năm 2015 đang định nghĩa “tài sản là…” theo hướng liệt kê những hình thức tồn tại của tài sản. Trong khi lẽ ra phải nêu nội hàm của khái niệm, phải chỉ ra các yếu tố để nhận diện về tài sản. Đồng thời, BLDS chỉ giải thích khái niệm vật và quyền tài sản, còn khái niệm tiền, giấy tờ có giá vốn nằm trong khái niệm về tài sản lại không được giải thích. Sự liệt kê này gây ra sự nhầm lẫn giữa tài sản tồn tại dưới dạng quyền với các loại giấy tờ chứng minh cho quyền tài sản đó. Có thể suy đoán là nhà làm luật muốn để các luật chuyên ngành quy định. Tuy nhiên, BLDS là luật chung, cần phải tạo khung cho luật chuyên ngành, nếu không sẽ dẫn đến khả năng có sự mâu thuẫn hay chồng chéo giữa các văn bản pháp luật. Thực tế đã chứng minh, có một số luật chuyên ngành được ban hành và làm vô hiệu hóa các quy định của BLDS. Theo các văn bản pháp luật hiện hành thì cổ phiếu, trái phiếu là giấy tờ có giá nhưng cũng là những giấy tờ chứng minh cho quyền tài sản. Vậy chúng là một hay là hai loại tài sản độc lập, mối quan hệ giữa chúng như thế nào thì chưa được giải thích. Tóm lại, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLDS năm 2015 theo hướng sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 105 bằng quy định khái quát thay cho cách quy định mang tính liệt kê, phân nhóm hiện nay, cần thống nhất về bản chất pháp lý của tài sản theo những dấu hiệu, đặc điểm pháp lý của tài sản và thống nhất về cách tiếp cận (quy định tài sản dưới dạng vật lý hay quy định các quyền trên tài sản). Hoặc có thể mô tả tài sản thông qua việc phân loại tài sản thành: bất động sản hữu hình, bất động sản vô hình, động sản hữu hình và động sản vô hình.

Các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực như đầu tư, quản lý tài sản công cần có các quy định cụ thể hơn về các loại tài sản đặc thù hoặc có xu hướng ngày càng phổ biến trong đời sống xã hội như quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng; các loại tài sản liên quan đến dự án đầu tư (quyền sử dụng đất thuộc dự án, dự án đầu tư, tài sản đã hình thành thuộc dự án, tài sản hình thành trong tương lai thuộc dự án, quyền khai thác phát triển dự án); tài sản trong môi trường kỹ thuật số… Các quy định pháp luật cần làm rõ được các loại tài sản này được tham gia lưu thông trên thị trường ở mức độ nào, với những giao dịch nào, hạn chế giao dịch trong những trường hợp nào.

Hai là, đối với một số tài sản phát sinh mới: tài sản là một khái niệm động, nó có thể thay đổi theo từng xã hội, ngày càng có nhiều yếu tố được xem xét là tài sản như: thông tin, giọng hát ca sĩ,… và nhiều lợi ích có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong thực tế. Khi phát sinh một tài sản mới trong xã hội nhưng chưa có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh mà xảy ra tranh chấp sẽ khó giải quyết. Do vậy, pháp luật cần một cơ chế linh hoạt để tiếp nhận những loại tài sản mới và trong đó, việc áp dụng và phát triển tư duy pháp lý của người La Mã trong hệ thống pháp luật Civil Law là không thể tránh khỏi. Thêm vào đó, một khái niệm chung mang tính khái quát về bản chất tài sản (là các quyền) trước mắt là cần thiết. Vấn đề này sẽ không phải là dễ dàng mà cần có sự tham gia, phối hợp của nhiều cơ quan, đơn vị và đặc biệt là các chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực pháp luật dân sự.

Ví dụ điển hình hiện nay là: một số loại là sản phẩm của ứng dụng công nghệ mới mà nhiều quốc gia gọi là “tài sản mã hóa” (cryptoasset), pháp luật hiện hành ở Việt Nam chưa có quy định nào chính thức cấm việc sở hữu hoặc nắm giữ tài sản mã hóa nhưng cũng chưa có căn cứ pháp lý thật sự rõ ràng để xác định nó là tài sản hay không. Vì vậy, cần xây dựng khái niệm phù hợp về “tài sản mã hóa” theo hướng công nhận đây là một loại tài sản theo nghĩa pháp lý mà pháp luật dân sự điều chỉnh. Có thể quy tài sản mã hóa về dạng vật như quan điểm của luật dân sự La Mã, tuy không thể cầm nắm nhưng tài sản mã hóa tồn tại dưới dạng vật chất là các mã khoá, có thể được chiếm hữu và kiểm soát bởi người chủ sở hữu. Trong thời gian trước mắt, trong khi chưa thay đổi được khái niệm tài sản trong Điều 105 BLDS năm 2015 thì cần có quan điểm nhất quán về điều chỉnh pháp luật đối với các tài sản phi truyền thống theo hướng những đối tượng có thể được sở hữu và chuyển giao đều có thể coi là tài sản và thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về tài sản. Về lâu dài cần thay đổi cách quan niệm về tài sản trong BLDS nhằm đảm bảo khả năng bao quát các đối tượng có thể được coi là tài sản, tránh liệt kê cụ thể như hiện nay.

Ba là, về quyền tài sản: tại Việt Nam, ở góc độ lý luận, hiện còn có nhiều cách hiểu chưa thống nhất về tài sản khi được hình dung như một quyền. Tham khảo kinh nghiệm các quốc gia, có thể thấy, nhiều nước trên thế giới đã mở rộng phạm trù quyền tài sản, theo đó, quyền tài sản được đồng nhất với tài sản “Tài sản (property) không phải là một vật mà là một quyền hoặc một loạt quyền được cưỡng chế thực hiện trong quan hệ với những người khác”. Quyền tài sản được hiểu là một tập hợp rất nhiều quyền và lợi ích, được gọi là “bundle of right”. Như vậy, quyền tài sản được mở rộng bao gồm quyền sở hữu và các quyền khác, tất nhiên các quyền này phải có giá trị kinh tế. Cách hiểu này cũng hoàn toàn phù hợp với luật dân sự La Mã cổ đại, phù hợp với lý thuyết sản nghiệp của người La Mã về tài sản, theo đó, tài sản thuộc một sản nghiệp là tập hợp những quyền về tài sản cùng một chủ thể (hoặc được xác lập trong khuôn khổ một mục đích nào đó). Quyền này được chia làm hai loại cơ bản là quyền đối vật và quyền đối nhân, trong đó, quyền sở hữu là một loại vật quyền tuyệt đối. Do đó, Việt Nam có thể tham khảo về cách hiểu nêu trên trong việc quy định một định nghĩa chính xác về quyền tài sản trong BLDS.

Bốn là, về phân loại vật thành động sản và bất động sản: Luật dân sự La Mã phân loại theo đặc tính di dời (res mobiles) hoặc không di dời được (res immobiles). Còn pháp luật dân sự Việt Nam phân loại theo cách liệt kê và “Động sản là những tài sản không phải là bất động sản”. Quy định như vậy là không hợp lý bởi cách xác định mang tính loại trừ này đòi hỏi việc định nghĩa “bất động sản” phải cụ thể và rõ ràng. Nếu theo cách loại trừ này thì cần sửa đổi quy định tài sản là bất động sản tại điểm d khoản 1 Điều 107 BLDS năm 2015 theo hướng: quy định “Tài sản khác theo quy định của pháp luật” là những tài sản nào để làm cơ sở xác định tài sản là động sản bởi với tư duy loại trừ những gì không phải là bất động sản là động sản đòi hỏi khái niệm bất động sản phải rất rõ ràng.

Tuy nhiên, cách liệt kê như vậy chỉ là để tạm thời điều chỉnh các tài sản trong hiện tại, nếu tương lai phát sinh thêm một số loại tài sản khác thì lại phải tiếp tục sửa đổi Bộ luật theo hướng bổ sung thêm tài sản nào là bất động sản.

Vì vậy, có thể cân nhắc kế thừa cách phân loại tài sản thành động sản và bất động sản theo đặc tính di dời hoặc không di dời được như luật dân sự La Mã. Trong đó, bất động sản bao gồm: vật không di dời được theo bản chất tự nhiên và những động sản gắn liền với vật không di dời hoặc có chức năng phục vụ cho vật không di dời được. Hai loại bất động sản này được xếp vào loại bất động sản hữu hình. Loại thứ ba là các quyền thiết lập trên bất động sản hữu hình được gọi là bất động sản vô hình. Động sản cũng bao gồm hai loại là động sản hữu hình và động sản vô hình. Động sản hữu hình là vật di dời được, động sản vô hình là quyền thiết lập trên động sản hữu hình và các quyền khác không thiết lập trên vật. Việc phân loại theo đặc tính di dời như vậy sẽ dễ dàng xác định các loại tài sản hơn.

  1. Một số kiến nghị về chế định quyền sở hữu

Một là, về việc quy định quyền sở hữu gồm ba quyền năng

Như đã phân tích tại Chương 2, hiện nay khái niệm quyền sở hữu của Việt Nam tại Điều 158 BLDS năm 2015 với cách quy định ba quyền năng đang được xếp vào thế hệ phát triển quyền sở hữu thứ tư, được coi là hoàn thiện nhất và thông dụng nhất trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, với các vấn đề bất cập đã được phân tích nói lên thực trạng rằng cơ chế ba quyền năng (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) không thể thể hiện hết được bản chất pháp lý của quyền sở hữu tài sản.

Bởi vậy, cần sửa đổi Điều 158 theo hướng khẳng định quyền sở hữu là vật quyền chính trong các quyền đối với tài sản, chủ sở hữu có quyền trực tiếp đối với tài sản thuộc sở hữu của mình và không phụ thuộc ý chí của chủ thể khác, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc tham khảo cách quy định của BLDS Nhật Bản, theo đó, Điều 206 Bộ luật này quy định nội dung quyền sở hữu như sau “Chủ sở hữu có quyền tự do sử dụng, thu lợi tức và thực hiện định đoạt đối với vật thuộc sở hữu của mình theo khuôn khổ quy chế pháp luật”.

Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đặt ra là: với quy định ba quyền năng đó ra thì còn phải bổ sung thêm nội dung gì nữa thì mới thể hiện hết được bản chất của quyền sở hữu? Điều dễ nhận thấy rằng nếu bổ sung thêm một vài quyền năng nữa cho khái niệm quyền sở hữu tài sản thì cũng không thể giải quyết được triệt để các vấn đề nêu trên. Khái niệm tài sản thế hệ thứ năm (thuộc về tương lai) đòi hỏi không chỉ bổ sung thêm một vài quyền năng nữa, mà cần thiết phải có một bước thay đổi cơ bản về cách hiểu khái niệm quyền sở hữu. Vậy đâu là phương hướng mà pháp luật trong tương lai sẽ lựa chọn? Khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ năm sẽ như thế nào?. Hiện nay có ý kiến cho rằng khái niệm quyền sở hữu trong tương lai có thể sẽ không liệt kê các quyền năng, mà chỉ liệt kê các hạn chế của chủ sở hữu (ý kiến này cũng là một gợi ý để các nhà khoa học tiếp tục cân nhắc). Cụ thể, chủ sở hữu sẽ có mọi quyền năng, ngoại trừ một số hạn chế cụ thể mà pháp luật quy định không cho phép chủ sở hữu được thực hiện. Kèm theo đó pháp luật có thể cụ thể hoá hơn nữa các nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Phương hướng đó sẽ phù hợp với nguyên tắc chung thực hiện quyền sở hữu được quy định tại Điều 178 BLDS năm 2015: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản, nhưng không được làm thiệt hại và ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.

Hai là, đối với các nội dung về quyền sử dụng

Để khắc phục việc nhiều người tuy được quyền sử dụng tài sản nhưng lại không được hưởng hoa lợi, lợi tức từ việc khai thác công dụng. Luật dân sự Việt Nam cần nghiên cứu kế thừa cách tách riêng quyền sử dụng tài sản (ius utendi) với quyền hưởng lợi từ tài sản (ius fruendi) với tư cách là các quyền năng độc lập trong luật dân sự La Mã. Theo đó, Điều 189 BLDS năm 2015 về quyền sử dụng cần sửa đổi theo hướng tách quyền sử dụng thành hai quyền năng riêng biệt thuộc nội dung của quyền sở hữu. Cụ thể là tách riêng nội dung khai thác công dụng của tài sản thành quyền sử dụng tài sản, nội dung hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thành quyền hưởng lợi từ tài sản. Việc hoàn thiện quy định này của BLDS năm 2015 giúp tiếp cận tốt hơn thông lệ quốc tế về nội hàm của quyền sử dụng.

Ba là, về chiếm hữu

– Cần phân biệt các khái niệm “quyền chiếm hữu”: kế thừa luật dân sự La Mã trong việc công nhận chiếm hữu là một tình trạng thực tế, tuy nhiên, hiện nay BLDS năm 2015 đang sử dụng song song hai khái niệm “quyền chiếm hữu” gồm trạng thái chiếm hữu và quyền chiếm hữu nằm trong quyền sở hữu, cách quy định này dẫn đến khó có thể có căn cứ để phân định rõ ràng đâu là quyền chiếm hữu, và đâu là trạng thái chiếm hữu. Vì vậy, các quyền này cần thiết phải có sự minh định về từ ngữ, có thể tham khảo cách biên dịch hai từ possessio thành“chiếm hữu” và dententio thành “chiếm giữ” của PGS.TS. Bùi Đăng Hiếu, để từ đó quy định về chiếm hữu như một trạng thái nắm giữ, chi phối tài sản của chủ thể được suy đoán là có quyền với tài sản, còn chiếm giữ sẽ là một nội hàm nằm trong quyền sở hữu tài sản.

– Về kết cấu, cân nhắc tách riêng quyền chiếm hữu ra khỏi quyền sở hữu để xây dựng duy nhất một chế định chiếm hữu nói chung trong BLDS năm 2015, tránh việc sử dụng cùng 1 thuật ngữ “chiếm hữu” để xây dựng 2 chế định khác nhau như hiện nay. Xem xét bỏ nội dung về “quyền chiếm hữu” trong các quy định về quyền sở hữu của BLDS năm 2015 (Điều 186 đến Điều 188) để đảm bảo tính logic của vấn đề sở hữu, phù hợp với lý thuyết đã được thừa nhận rộng rãi về nội hàm quyền sở hữu thường không bao hàm quyền chiếm hữu.

Cụ thể, pháp luật Việt Nam có thể xây dựng chế định chiếm hữu dựa trên cơ sở tiếp nhận học thuyết chiếm hữu trong pháp luật dân sự La Mã (chế định chiếm hữu cần được ghi nhận một cách độc lập với chế định sở hữu). Kế thừa các nội dung chế định chiếm hữu trong luật dân sự La Mã gồm: khái niệm chiếm hữu; các hình thức chiếm hữu; căn cứ phát sinh, chấm dứt chiếm hữu và bảo vệ chiếm hữu.

Việc tách riêng chế định chiếm hữu khỏi chế định sở hữu như trong luật dân sự La Mã mang lại nhiều lợi ích:

+ Quan hệ chiếm hữu được thừa nhận sẽ có tác dụng tạo ra sự suy đoán có lợi cho người chiếm hữu trong số các bên có tranh chấp về quyền đối với tài sản. Người chiếm hữu tài sản sẽ được suy đoán là người có quyền đối với tài sản, ai đó muốn chứng minh điều ngược lại thì phải đưa ra được chứng cứ nếu không vật sẽ vẫn thuộc quyền của người chiếm hữu. Chế định này nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người đang thực tế chiếm hữu vật, qua đó góp phần ổn định các quan hệ pháp luật dân sự và trật tự xã hội.

+ Tách riêng hai chế định chiếm hữu và sở hữu tránh được khó khăn trong việc phải chứng minh quyền sở hữu trong xét xử bảo vệ chiếm hữu bởi chứng minh quyền sở hữu phức tạp hơn nhiều so với chứng minh chiếm hữu. Chứng minh sở hữu nhiều khi phải lật lại các sự việc đã xảy ra trước đây để tìm ra chứng cứ chứng minh mình có quyền đối với vật. Trong khi chứng minh chiếm hữu chỉ cần xem xét hai yếu tố corpus và animus.

Đồng thời, hoàn thiện chế định chiếm hữu sẽ phần nào giúp pháp luật Việt Nam có tiếng nói chung đối với các hệ thống pháp luật thế giới trong khung cảnh hội nhập hiện nay.

– Bổ sung quy định về cầm giữ tạm thời: luật dân sự La Mã quy định một số đối tượng (như người thuê tài sản, mượn tài sản) cũng có sự chiếm giữ tài sản (là thực tế có vật – corpus possessionis nhưng không có ý chí chiếm hữu vật – animus possessionis).

Trên thực tế, để xác định được một người đang cầm vật trên tay là người chiếm hữu hay chỉ là người cầm giữ tạm thời, luật dân sự Việt Nam cần nghiên cứu thêm việc quy định về cầm giữ tạm thời trong luật dân sự La Mã. Có thể tham khảo pháp luật của Pháp: một mặt, theo BLDS Pháp Điều 2250, bất kỳ người nào đang nắm giữ tài sản đều được suy đoán là người chiếm hữu, cho đến khi có ai khác chứng minh được rằng người này chỉ là người nắm giữ tài sản của người khác, tức là chỉ cầm giữ tạm thời. Mặt khác, theo Điều 2251, người nào đã mang tư cách người cầm giữ tạm thời, thì luôn được suy đoán là chỉ có tư cách đó chứ không thể “tự suy diễn” hoặc tự xác lập thành người chiếm hữu, dù bao nhiêu thời gian có trôi qua, trừ trường hợp chứng minh được rằng mình đã trở thành chủ sở hữu bằng các con đường hợp pháp.

3. Một số kiến nghị về quyền khác đối với tài sản

Hiện nay BLDS năm 2015 đã chính thức ghi nhận 03 quyền khác đối với tài sản gồm quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt (Điều 245 đến Điều 273). Trên cơ sở các phân tích lý luận cũng như lợi ích, ý nghĩa và bất cập về quyền khác đối với tài sản tại mục 2.2.2 Chương 2, Nhóm nghiên cứu cho rằng về tổng thể các quy định về quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt tại BLDS năm 2015 cần tiếp tục hoàn thiện bởi với tính chất là vật quyền mới được ghi nhận nên nhiều nội dung chưa đi đến cùng vấn đề, còn bỏ ngỏ hoặc lúng túng.

Bên cạnh đó, cần thấy rằng chế định quyền hưởng dụng, quyền bề mặt có nhiều nội dung mới trong khi đó các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan lại chưa phù hợp, chưa cụ thể hóa nội dung của BLDS năm 2015. Do vậy, để bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật dân sự và các quy định pháp luật khác có liên quan chúng ta cần xem xét Luật Đất đai năm 2013, Luật Xây dựng năm 2014, Luật Lâm nghiệp năm 2017, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Xây dựng năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Đầu tư năm 2020, Luật Chứng khoán năm 2019,… và tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành quy định hướng dẫn để phù hợp với cách tiếp cận mới của BLDS năm 2015 về quyền khác đối với tài sản. Kiến nghị cụ thể:

a) Quyền hưởng dụng

Một là, hiện nay các quy định trong BLDS năm 2015 nội hàm của quyền hưởng dụng có nội dung khá tương đồng với nội dung của quyền sử dụng trong các quyền năng của quyền sở hữu dẫn đến khó phân biệt hai khái niệm, vì vậy, cần sửa đổi quy định tại Điều 189 về khái niệm quyền sử dụng và Điều 257 về khái niệm quyền hưởng dụng để có sự tách bạch rõ hơn nội hàm của các quyền này.

Hai là, do tính chất vật quyền của quyền hưởng dụng còn mờ nhạt, vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 261 BLDS năm 2015 về quyền của người hưởng dụng theo hướng mở rộng hơn quyền năng của người hưởng dụng như bổ sung quy định người có quyền hưởng dụng có quyền định đoạt đối với quyền hưởng dụng, cụ thể là có quyền bán, tặng cho, trao đổi, cầm cố, thế chấp quyền hưởng dụng.

Ba là, bên cạnh việc sửa đổi BLDS năm 2015, các Luật chuyên ngành (như Luật Doanh nghiệp, Luật chứng khoán, Luật Đầu tư…) cần phải bổ sung các quy định cụ thể về quyền hưởng dụng đối với các loại tài sản đặc biệt như: Luật Đất đai năm 2013 sửa đổi, bổ sung Điều 95 theo hướng quy định về đăng ký bắt buộc đối với quyền hưởng dụng thuộc trường hợp đăng ký biến động đất đai. Luật Lâm nghiệp năm 2017 bổ sung quy định cụ thể quyền hưởng dụng rừng đối với rừng sản xuất, rừng trồng. Luật Doanh nghiệp năm 2020 bổ sung quy định người có quyền hưởng dụng đối với cổ phần, phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty TNHH có quyền hưởng cổ tức, còn bản thân cổ phần vẫn thuộc về người sở hữu – cổ đông, thành viên của Công ty; người có quyền hưởng dụng sẽ có tư cách tham dự đại hội cổ đông thông thường của Công ty cổ phần để quyết định việc chia cổ tức; còn chủ sở hữu có quyền tham dự đại hội cổ đông bất thường, do đại hội này có quyền quyết định việc tăng, giảm vốn điều lệ.

b) Quyền bề mặt

Quyền bề mặt lần đầu tiên được ghi nhận trong BLDS năm 2015 nên còn có những nội dung bỏ ngỏ, mặc khác, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa kịp thời cụ thể hóa nội dung, tinh thần của BLDS năm 2015. Vì vậy, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện BLDS năm 2015 về lâu dài, tiến hành sửa đổi Luật Đất đai năm 2013, Luật Xây dựng năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để đảm bảo quyền bề mặt đi vào cuộc sống. Trong đó, có một số giá trị từ luật dân sự La Mã có thể nghiên cứu xem xét như:

+ Cần linh động, mềm dẻo trong việc giao quyền sử dụng bề mặt như: cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho chủ thể khoảng không gian nhất định trên, dưới mặt đất bằng cách (1) giao quyền sử dụng đất có giới hạn cho một chủ thể và giao phần bề mặt còn lại cho chủ thể khác; (2) thu hồi một phần không gian trên, dưới lòng đất thuộc quyền sử dụng đất đã giao cho cá nhân, tổ chức và giao quyền bề mặt cho chủ thể khác trong những trường hợp không cần thiết phải thu hồi toàn bộ quyền sử dụng đất để giảm bớt gánh nặng bồi thường, giải phóng mặt bằng, ví dụ thu hồi không gian dưới lòng đất của các chủ thể đã được giao quyền sử dụng đất và giao quyền bề mặt đó cho chủ đầu tư để thực hiện các tuyến tầu điện ngầm trong các đô thị. Các chủ thể được giao quyền bề mặt được khai thác, sử dụng, xây dựng và sở hữu công trình trong không gian quyền bề mặt đó (vật quyền luật định). BLDS và Luật Đất đai cần được nghiên cứu, hoàn thiện theo hướng quy định đủ 02 trường hợp nêu trên để đảm bảo tính đầy đủ, trọn vẹn của quyền bề mặt.

+ Việt Nam thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, trao quyền sử dụng đất cho các chủ thể khác nhau trong xã hội. Do đó, khi áp dụng quyền bề mặt vào pháp luật dân sự, Việt Nam cần có sự linh hoạt trong nhận thức và ứng dụng để tránh nhầm lẫn với quyền sử dụng đất được quy định trong Luật Đất đai năm 2013. Đồng thời, cần sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 nhằm làm rõ một số quy định về mối quan hệ giữa ba bên: Nhà nước với tư cách chủ sở hữu đất đai, người có quyền sử dụng đất (người được nhà nước giao đất) và người có quyền bề mặt.

Luật Đất đai năm 2013 cần ghi nhận trường hợp Nhà nước có quyền giao cho chủ thể khoảng không gian nhất định trên hoặc dưới mặt đất (không phải giao toàn bộ quyền sử đụng đất) để chủ thể đó khai thác, sử dụng, xây dựng công trình nổi hoặc ngầm.

+ Pháp luật Việt Nam cần giải quyết được mối quan hệ giữa các chủ thể cùng có quyền bề mặt. Do cơ chế cắt lớp khoảng không nên sẽ đồng thời tồn tại nhiều người có quyền bề mặt (với ranh giới khoảng không khác nhau) trên cùng một khoảnh đất. Đương nhiên mỗi người trong đó không thể tùy tiện thực hiện quyền của mình mà không tính đến quyền của người khác phía trên và phía dưới mình. Do vậy pháp luật cần làm rõ các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể quyền bề mặt với nhau. Đồng thời, BLDS năm 2015 (khoản 3 Điều 271) cần quy định rõ việc quyền bề mặt được chuyển giao toàn bộ hay một phần là chuyển giao quyền bề mặt hay chuyển giao tài sản trên mặt đất, mặt nước hay cả hai. Và việc chuyển giao này có bao gồm việc định đoạt, thế chấp quyền bề mặt hay không.

+ Sửa đổi pháp luật xây dựng theo hướng việc sử dụng đối với khoảng không gian trên và dưới lòng đất phải có giới hạn về độ sâu và cao bởi quy định về không gian ngầm, quy chuẩn về công trình ngầm, quy hoạch xây dựng…

+ Kế thừa nguyên tắc luật dân sự La Mã cho rằng bất cứ vật gì gắn liền với đất đều là một phần của đất (superficies solo cedit), Quyền bề mặt trong Luật dân sự Việt Nam về bản chất là quyền gắn liền với đất đai nên được coi là một loại bất động sản và cần được quy định để công khai cho bên thứ ba được biết. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần giải quyết được vấn đề thủ tục công nhận, đăng ký và công khai quyền bề mặt. Hiện nay dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cụ thể là Điều 133. Đăng ký lần đầu và Điều 134. Đăng ký biến động cần phải có sự quan tâm đến vấn đề đăng ký quyền bề mặt.

c) Quyền đối với bất động sản liền kề

Một là, về sử dụng thuật ngữ: các nhà làm luật nên cân nhắc việc sử dụng thuật ngữ “địa dịch” thay thế cho “quyền đối với bất động sản liền kề” như hiện nay để đảm bảo tính khái quát và tính chính xác, làm rõ hơn bản chất vấn đề, thể hiện được đầy đủ nội dung của toàn bộ chế định, cụ thể:

(i) Dùng thuật ngữ “quyền địa dịch” phù hợp với thông lệ chung của pháp luật các nước trên thế giới, vì pháp luật các nước trên thế giới (ví dụ BLDS của Pháp, Thái Lan, Québec (Canada)…) sử dụng thuật ngữ “Praedial servitude” để chỉ quyền này, có thể dịch ra tiếng Việt là quyền địa dịch. Hơn nữa “địa dịch” cũng không phải hoàn toàn mới mẻ trong pháp luật Việt Nam, bởi các BLDS trước đây ở Việt Nam cũng đã từng sử dụng thuật ngữ này.

 (ii) Khi nói đến quyền đối với bất động sản liền kề tức là đề cập đến vấn đề liên quan đến các “bất động sản liền kề nhautuy nhiên, nếu quy định như vậy thì quyền sử dụng hạn chế BĐS liền kề sẽ không thể giải quyết được một số trường hợp thực tế xảy ra, ví dụ như không được xây nhà quá cao (trên mảnh đất cách xa sân bay) mà làm ảnh hưởng đến đường bay của máy bay. Do đó, nên dùng thuật ngữ “quyền địa dịch” để giải quyết được đầy đủ hơn những trường hợp xác định quyền địa dịch trong thực tế. Bởi nội hàm quyền địa dịch được hiểu theo nghĩa rộng là việc khai thác sử dụng BĐS này để làm lợi hơn cho bất động sản khác.

(iii) Khi nói đến quyền địa dịch thì giữa hai BĐS liền kề sẽ phát sinh “dịch lụy”, mà “dịch lụy” được hiểu là những “phiền lụy” mà BĐS này (BĐS hưởng quyền) gây ra cho BĐS khác (BĐS chịu quyền) để đảm bảo cho việc khai thác, sử dụng BĐS đó. Từ đó, cũng cho chúng ta thấy được cả mối quan hệ giữa hai BĐS liền kề nhau, mối quan hệ giữa hai chủ sở hữu BĐS liền kề với nhau, thấy được cả mối quan hệ giữa chủ sở hữu của BĐS hưởng quyền đối với BĐS chịu quyền.

Đồng thời, các Luật chuyên ngành cũng cần sửa đổi thuật ngữ để đảm bảo sự thống nhất với BLDS, ví dụ như: sửa đổi cụm từ quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề tại Điều 171 Luật Đất đai năm 2013. Bên cạnh đó, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, triển khai và phát huy vai trò của các quy định của BLDS năm 2015 về quyền đối với bất động sản liền kề.

Hai là, Điều 245 đến Điều 256 BLDS năm 2015 cần được bổ sung các quy định cụ thể hơn về giới hạn mức đền bù và căn cứ để xác định mức đền bù của chủ sở hữu bất động sản hưởng địa dịch cho chủ sở hữu bất động sản chịu địa dịch; chủ sở hữu bất động sản chịu dịch quyền không được hiện các hành vi nhằm hạn chế hoặc cản trở cho việc dịch quyền như không được làm thay đổi tình trạng bất động sản, không được di chuyển việc thực hiện dịch quyền sang một địa điểm khác với địa điểm ban đầu; quyền của chủ sở hữu bất động sản hưởng địa dịch trong việc xây dựng các công trình cần thiết để sử dụng và bảo toàn địa dịch.

d) Quyền thuê đất dài hạn

Hiện nay BLDS năm 2015 không quy định trực tiếp quyền thuê đất dài hạn mà quyền này bước đầu được thể hiện một số khía cạnh tại Luật Đất đai năm 2013. Với các quy định hiện nay tại Luật Đất đai thì trong thời gian tới Luật Đất đai cần ghi nhận quyền thuê đất dài hạn là một dạng quyền bề mặt, tuy nhiên, trong bối cảnh BLDS năm 2015 khó có thể được sửa đổi được một sớm một chiều và còn đề cập quyền bề mặt tương đối hẹp (chỉ ghi nhận quyền bề mặt trên quyền sử dụng đất thuộc về người khác) nên trước mắt, Luật Đất đai (sửa đổi) cần ghi nhận quyền thuê đất dài hạn là dạng vật quyền khác để có thể áp dụng các quy định mang tính nguyên tắc chung của BLDS năm 2015 về quyền khác đối với tài sản. Việc ghi nhận vật quyền này sẽ góp phần thể chế hóa chủ trương “quy định chế độ sử dụng đất xây dựng công trình trên không, công trình ngầm…” đã được nêu tại Nghị quyết số 18-NQ/TW.

4. Một số kiến nghị về các biện pháp bảo đảm

Một là, cần coi cầm cố, thế chấp là vật quyền: trong luật dân sự La Mã, các biện pháp bảo đảm được thừa nhận là vật quyền, còn trong pháp luật dân sự Việt Nam thì coi cầm cố, thế chấp là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ – là một quan hệ phụ so với quan hệ nghĩa vụ chính (nghĩa vụ được bảo đảm) do đó cầm cố mang tính chất trái quyền. Tuy nhiên, do các biện pháp mang tính chất trái quyền đã làm phát sinh một số hạn chế, bất cập như đã nêu. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế trong quy định về cầm cố, thế chấp, BLDS hiện hành nên coi cầm cố, thế chấp là vật quyền trên cơ sở chọn lọc, kế thừa những giá trị tiến bộ của biện pháp cầm cố, thế chấp trong luật dân sự La Mã (nhất là biện pháp thế chấp – Hypotheca), bởi một số lợi ích sau:

Đối với người nhận cầm cố, nhận thế chấp: cho phép người nhận cầm cố, nhận thế chấp (chủ nợ) có quyền trực tiếp trên tài sản thế chấp, cầm cố mà không phải thông qua bất kỳ trung gian nào. Trong trường hợp bên cầm cố, thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, chủ nợ có thể thi hành trực tiếp trên tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Thay vì phải lệ thuộc vào hành vi của con nợ hay người thứ ba nắm giữ tài sản bảo đảm người có vật quyền được phép tác động trực tiếp vào giá trị tiền tệ của tài sản, quyền lợi của chủ nợ được thực thi một cách nhanh gọn và hiệu quả nhất.

+ Đối với người cầm cố, thế chấp: công nhận quyền định đoạt của người cầm cố, thế chấp đối với tài sản bảo đảm, cụ thể là người này có quyền chuyển nhượng tài sản bảo đảm cho người khác. Điều này tạo điều kiện cho bên bảo đảm có khả năng khai thác giá trị kinh tế của tài sản, tránh gây lãng phí. Pháp luật trao cho họ một quyền năng nữa là quyền đeo đuổi, cho phép họ thực hiện quyền của mình đối với tài sản bảo đảm ngay cả khi tài sản đó đang thuộc sự chiếm hữu của chủ thể khác. Trong trường hợp nghĩa vụ đến hạn mà không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì người nhận bảo đảm có quyền tiến hành kê biên tài sản bảo đảm dù tài sản đã được chuyển nhượng và thuộc về ai chăng nữa. Ngoài ra, chủ nợ nhận cầm cố, thế chấp còn được ưu tiên thực hiện quyền của mình đối với tài sản bảo đảm trước những chủ thể khác đã xác lập vật quyền bảo đảm sau mình. Điều này có ý nghĩa trong trường hợp một tài sản được bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, dẫn đến việc có nhiều người có quyền đối vật trên tài sản bảo đảm. Xác lập trật tự giữa các chủ nợ tránh được việc xảy ra tranh chấp về tài sản bảo đảm trong quá trình xử lý nợ.

Hai là, hoàn thiện hệ thống đăng ký tài sản: ngoài quyền lợi của bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, pháp luật các nước tiên tiến cũng chú trọng đến bảo vệ quyền lợi của người nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm thông qua hệ thống đăng ký. Nhờ vào hệ thống đăng ký, bên thứ ba có thể nắm rõ được tình trạng của tài sản, nếu đã biết tài sản đang được cầm cố, thế chấp để bảo đảm cho một hay nhiều nghĩa vụ mà người này vẫn đồng ý nhận chuyển nhượng thì coi như họ chấp nhận việc tài sản có thể kê biên khi nghĩa vụ được bảo đảm không được thực hiện đúng.

Tóm lại, để khắc phục những hạn chế trong quy định về cầm cố, thế chấp, BLDS hiện hành nên thừa nhận cầm cố, thế chấp là vật quyền đồng thời xây dựng hệ thống đăng ký đối với thế chấp để làm minh bạch tình trạng pháp lý của tài sản thế chấp. Việc thế chấp được ghi nhận trong sổ đăng ký tài sản và bất cứ ai đều có thể tra cứu thông tin về những vật quyền có trên tài sản. Một khi tình trạng pháp lý của tài sản đã được công khai mà người thứ ba vẫn giao dịch đối với tài sản thế chấp thì phải chấp nhận việc tài sản có thể bị kê biên khi nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn mà không được thực hiện đầy đủ.

5. Một số kiến nghị về chế định hợp đồng

Với việc ban hành BLDS, chế định hợp đồng đã được xem xét dưới tất cả các góc độ, vừa tiếp tục truyền thống của hệ thống pháp luật Civil Law, pháp luật XHCN (Soviet Law), vừa xem xét những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn giao lưu dân sự, phát triển kinh tế thị trường hiện nay. Mặc dù vẫn còn những vấn đề tiếp tục nghiên cứu để bổ sung, nhưng có thể nói, những quy định của BLDS tương đối chặt chẽ, đầy đủ từ những khía cạnh chung về giao kết, thực hiện, sửa đổi, chấm dứt hợp đồng đến từng loại hợp đồng thông dụng cụ thể, từ khía cạnh khái quát của từng loại hợp đồng đến khía cạnh đặc thù của các biến dạng hợp đồng trong cuộc sống hiện tại.

Để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các quy định hợp đồng còn vướng mắc, bất cập hiện nay, dưới góc độ kế thừa các quy định tiến bộ của luật dân sự La mã, Nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp sau:

Một là, điều kiện về chủ thể trong giao kết hợp đồng

+ Như đã phân tíchBLDS năm 2015 quy định người hạn chế năng lực hành vi chỉ bao gồm “người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản gia đình” có phạm vi hẹp hơn người “ăn chơi trác táng” trong luật dân sự La Mã. Bởi, trên thực tế có thể hiểu việc phá tán tài sản ngoài nguyên nhân do nghiện ma túy, chất kích thích khác thì còn các hành vi khác như nghiện cờ bạc, lô đề…). Do đó, Việt Nam cần tham khảo các quy định về người “ăn chơi trác táng” như trong luật La Mã để thiết kế các điều khoản luật hợp lý, điều chỉnh rộng hơn về các hành vi phá tán tài sản gia đình, từ đó có sự điều chỉnh phù hợp khi họ muốn tham gia vào việc ký kết, thực hiện hợp đồng.

+ Đối với các tổ chức không có tư cách pháp nhân, hiện nay BLDS năm 2015 chỉ mới quy định về trách nhiệm của các thành viên (từ Điều 101 đến Điều 104), mà chưa xem xét vấn đề trách nhiệm nghĩa vụ của tổ chức không có tư cách pháp nhân khi tham gia quan hệ dân sự. Vì vậy, cần có quy định cụ thể đối với trường hợp tổ chức không có tư cách pháp nhân khi tham gia vào các quan hệ dân sự phù hợp với tính chất, mô hình tổ chức, chế độ trách nhiệm của các tổ chức này, thống nhất với các quy định pháp luật chuyên ngành có liên quan khác.

Hai là, điều kiện nội dung của hợp đồng không được trái đạo đức xã hội

Cả luật dân sự La Mã và Luật dân sự Việt Nam đều quy định mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không trái đạo đức xã hội (điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015), tuy nhiên, dù được định nghĩa là chuẩn mực ứng xử được thừa nhận, được tôn trọng bởi cộng đồng, nhưng cho đến nay, đạo đức vẫn chưa được mô tả cụ thể bởi một văn bản chính thức. Do vậy, đạo đức là một phạm trù khá trừu tượng và bất biến, mang tính chủ quan ý chí cá nhân khá nhiều. Ngoài ra, chuẩn mực đạo đức cũng thay đổi qua các thời kỳ phát triển cũng như sự tiến bộ về nhận thức của con người, tại từng địa phương cũng có những quan niệm khác nhau. Vì thế, trên thực tế để xác định đâu là hợp đồng giao kết trái đạo đức xã hội không phải điều đơn giản. Chính vì vậy, BLDS năm 2015 cần cụ thể hóa các quy định về đạo đức hoặc chỉ dẫn văn bản điều chỉnh đạo đức thay vì quy định chung chung như hiện nay.

Ba là, về về việc thiết kế các quy định để điều chỉnh hợp đồng

Thông qua sự so sánh về cách phân loại hợp đồng dân sự cho thấy, quy định của BLDS Việt Nam rộng hơn so với luật dân sự La Mã do sự phát triển của kinh tế – xã hội làm xuất hiện thêm nhiều loại hợp đồng cần được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, việc liệt kê một danh sách các loại hợp đồng trong BLDS và cũng quy định các loại hợp đồng trong luật chuyên ngành gây ra tình trạng chồng chéo, cũng như sẽ không thể bao trùm và dự liệu được hết tất cả các tình huống diễn ra trong thực tế. Vì vậy, cơ cấu lại hệ thống pháp luật về hợp đồng theo hướng tinh giản hóa là một nhu cầu cấp thiết, có thể xem xét đến việc pháp điển hóa luật hợp đồng thống nhất, cụ thể:

Với nguyên tắc “ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung” có nguồn gốc từ luật La Mã, khi có sự không thống nhất giữa các quy định về cùng vấn đề trong BLDS và trong luật chuyên ngành thì quy định của luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên áp dụng. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận tại BLDS năm 2015 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi năm 2020). Do vậy, để tránh sự trùng lặp và bất cập như hiện nay, BLDS sẽ được giản lược và chỉ làm nhiệm vụ điều chỉnh những vấn đề chung về tài sản và nhân thân mà không điều chỉnh quan hệ hợp đồng nữa. Đồng thời, kết hợp pháp điển hóa nội dung luật hợp đồng với việc bóc tách quan hệ hợp đồng trong BLDS và thống nhất bằng cách tập hợp các quy định trong các luật chuyên ngành, văn bản dưới luật, sau đó hệ thống và xây dựng thành một đạo luật riêng biệt. Điều này cũng phù hợp với thông lệ chung của các quốc gia trên thế giới. Ví dụ: Trung Quốc đã xây dựng Luật Hợp đồng riêng biệt vào năm 1999. Hiện nay, một số quốc gia như Hoa Kỳ, Đức, Indonesia cũng đã ban hành một đạo luật hợp đồng riêng biệt.

Ngoài các giải pháp hoàn thiện chế định tài sản, quyền sở hữu và chế định hợp đồng nêu trên, như đã phân tích bên trên, các chế định cơ bản của Luật dân sự Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập (Đề tài mới chỉ nêu một số bất cập có liên quan đến những quy định kế thừa từ luật dân sự La Mã, vì vậy, trên thực tế còn nhiều bất cập khác về mặt xây dựng pháp luật cũng như thi hành pháp luật cần được tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới). Tuy nhiên, do các quan hệ dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS rất rộng và thường BLDS sẽ không quy định chi tiết được hết các quan hệ này, nếu giải quyết vấn đề trên bằng việc sửa đổi, bổ sung các quy định của BLDS dẫn đến Bộ luật này luôn trong tình trạng không ổn định. Vì vậy, một trong những giải pháp được nhiều nước áp dụng để đảm bảo sự ổn định của BLDS là thừa nhận quyền của tòa án trong giải thích pháp luật để làm rõ nội dung, cách hiểu khác nhau về một quy định của luật. Vì vậy, có thể cân nhắc hoàn thiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thừa nhận quyền của tòa án trong giải thích pháp luật.

 

 

 

KẾT LUẬN CHUNG

 

Với mục tiêu nghiên cứu các giá trị đương đại của luật dân sự La Mã trong một số chế định cơ bản là chế định tài sản, quyền sở hữu và chế định hợp đồng, từ đó có cơ sở để đề xuất những giải pháp khoa học và khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự Việt Nam trong thời gian tới, Đề tài đã nghiên cứu và đạt được một số kết quả tổng quát sau:

1. Từ quá trình nghiên cứu các giá trị đương đại của luật dân sự La Mã có thể thấy, luật La Mã tuy hình thành và phát triển cùng với sự ra đời của Nhà nước La Mã cổ đại – một nhà nước của xã hội chiếm hữu nô lệ cách đây hàng ngàn năm, nhưng những thành tựu trong lĩnh vực xây dựng pháp luật là một trong những công trình văn hóa vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, in dấu ấn đậm nét và có tầm ảnh hưởng lớn đến các hệ thống pháp luật trên thế giới… Trong đó, phần pháp luật dân sự là bộ phận nổi bật, có nhiều nội dung tiến bộ, vượt thời đại, tạo nên khuôn khổ cơ bản cho luật dân sự, hệ thống luật được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới hiện nay.

2. Để nhận diện những giá trị đương đại của luật dân sự La Mã đối với pháp luật dân sự Việt Nam, Đề tài đã đi sâu phân tích các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành trên cơ sở đối chiếu, so sánh với luật dân sự La Mã. Nhìn nhận các khó khăn, vướng mắc trong các chế định cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam gồm chế định tài sản, quyền sở hữu và chế định hợp đồng.

Có thể thấy, tuy lịch sử phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam vẫn còn rất mới so với các nước khác trên thế giới nhưng các văn bản pháp luật (điển hình là các Bộ luật Dân sự) đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa từ luật dân sự La Mã. Qua thực tiễn thi hành cho thấy, dù còn một số hạn chế, bất cập nhưng nhìn chung pháp luật dân sự La Mã có sự phù hợp nhất định với tư duy xây dựng pháp luật hiện nay ở Việt Nam. Vì vậy, Nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số kiến nghị trên tinh thần tiếp tục kế thừa có chọn lọc các giá trị của luật dân sự La Mã nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam trong thời gian tới.

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Nam Lua

Nam Lua

Bình luận

avatar