Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

26. Sự triệt tiêu hợp đồng: Cách hiểu của Cộng đồng châu Âu và quốc tế

SỰ TRIỆT TIÊU HỢP ĐỒNG
Cách hiểu của Cộng đồng châu Âu và quốc tế 

Việc nghiên cứu cách hiểu trong luật Cộng đồng châu Âu và luật quốc tế cho thấy tính đa nghĩa của các khái niệm. “Vô hiệu”, “hủy hợp đồng”, “đình chỉ hợp đồng”, “thu hồi”, “không có hiệu lực”, “mất hiệu lực”, “không tồn tại” hay còn cả “không có hiệu lực đối với người thứ ba” là những khái niệm mà chúng tôi gặp phải khi nghiên cứu trong các văn bản, bất kể đó là trong luật thực định hay trong những qy định được pháp điển hóa. Liệu có phải từ bỏ sự phình ra của các khái niệm này?
Đầu tiên, có thể nghĩ đến việc phân loại đơn giản: So sánh việc xử lý vi phạm liên quan đến điều kiện về thành lập hợp đồng và xử lý vi phạm về việc không thực hiện hợp đồng, phân biệt với việc xử lý vi phạm có hiệu lực hồi tố, với những việc chỉ có hiệu lực trong tương lai, phác họa bước đầu những vi phạm ảnh hưởng đến toàn bộ hợp đồng và chỉ ảnh hưởng một phần, tách việc xử lý vi phạm đòi hỏi sự can thiệp của Tòa án và việc xử lý vi phạm được thực hiện bởi các bên trong quan hệ hợp đồng, chia việc xử lý vi phạm có thể được đề nghị bởi tất cả các đương sự với việc thực hiện chỉ dành cho một vài đối tượng cụ thể. Song cách hiểu của luật Cộng đồng châu Âu và luật quốc tế khá là không hợp với những loại lập luận này. Đương nhiên là, các khái niệm “vô hiệu” và “hủy hợp đồng” vẫn hay được sử dụng, nhưng giữa chúng có sự phân định khá rõ nét. Một mặt, việc hủy hợp đồgn liên quan đến việc không tôn trọng những điều kiện về hiệu lực, mặt khác, việc hủy hợp đồng bị gây ra bởi việc không thực hiện những nghĩa vụ hợp đồng bởi một trong các bên. Tuy nhiên, những khái niệm này không thể được thu lại vào trong những phân loại vừa được nêu trên. Chúng không cùng chung lý do, không liên kết và giữ nguyên nghĩa từ văn bản này đến văn bản khác. vả lại, sự phân vân trong hệ thống thuật ngữ còn bị nhấn mạnh bởi việc trong các văn bản hay trong các án lệ đưa ra tại tòa án, có nhiều hay ít văn bản có liên quan đến những khái niệm khác như “mất hiệu lực“, “không tồn tại“, “không có hiệu lực“, “đình chỉ hợp đồng” hay điều khoản “không có hiệu lực bắt buộc” hoặc “được coi như không tồn tại“. Hệ thống thuật ngữ này phức tạp và không dễ dàng cho việc phân loại hay tổ chức.
Đầu tiên chúng ta nghiên cứu khái niệm “vô hiệu” và “hủy hợp đồng”, những khái niệm thường xuyên gặp nhất. Bất chấp việc được sử dụng thường xuyên, chế độ cảu những khái niệm này vẫn còn lập lờ (I). Tiếp theo, chúng ta sẽ thống kê những khái niệm khác, là những khái niệm bổ sung, xuất hiện tùy theo các văn bản và trong án lệ để xác định liệu có thể phát hiện những vùng ổn định trong hệ thống thuật ngữ bất chấp sự xuất hiện lộn xộn như hiện nay không? (II).

I. TÍNH HAI NGHĨA CỦA KHÁI NIỆM “VÔ HIỆU” VÀ “HỦY HỢP ĐỒNG”

Vô hiệu và hủy hợp đồng cho phép bao quanh hai đặc tính lớn của lý do triệt tiêu hợp đồng. Tuy nhiên, trong những giả thiết khác nhau, những từ này phải được sử dụng tinh tế. Việc đầu tiên là chúng ta phải thống kê lại những từ này (A). Công việc này cho phép chỉ ra rằng đây là những từ thường được sử dụng. Điều này có thể giúp đưa ra một chế độ thống nhất. Thứ hai, đó là một ghi nhận ngược: sự trở lại những khái niệm không dẫn theo những đặc tính giống nhau. Về mặt thuật ngữ, ta không thể nói theo cách hiểu của luật Cộng đồng châu Âu và luật quốc tế vô hiệu và hủy hợp đồng mà phải là những trường hợp vô hiệu và những trường hợp hủy hợp đồng được thực hiện theo cách đặc biệt. Chế độ tác động vào mỗi khái niệm trong các văn bản đã được phân tích là không thống nhất; sự đa dạng này còn lan sang cả lĩnh vực thuật ngữ học, kéo theo tính mập mờ của các định nghĩa gắn với khái niệm này (B).

A. Những trường hợp sử dụng các khái niệm “vô hiệu” và “hủy hợp đồng”.

“Vô hiệu” và “hủy hợp đồng” xuất hiện một cách hiển nhiên và trực tiếp trong một vài công ước quốc tế và trong các văn bản pháp điển hóa, của châu Âu hoặc quốc tế (1). Tuy nhiên, cần phải đưa ra những trường hợp vô hiệu và hủy hợp đồng được viện dẫn một cách gián tiếp, để giải quyết vấn đề  khác nhau cơ bản: yêu cầu đưa ra trong hững tình huống này không phải vấn đề là vô hiệu hay hủy hợp đồng mà là tác động của việc vô hiệu và hủy hợp đồng đến hợp đồng đó. Vì vậy, đứng trên quan điểm thuật ngữ học, đặt ra vấn đề là phải kiểm tra xem liệu vô hiệu hay hủy hợp đồng được hiểu theo cùng một cách hay không trong những tình huống vô hiệu hay hủy hợp đồng (2).

1. Những trường hợp sử dụng trực tiếp 

Trước tiên, các khái niệm vô hiệu và hủy hợp đồng được định nghĩa theo những giả thuyết mà trong đó những chế tài này có thể được thực hiện. Vô hiệu là chế tài được sử dụng trong trường hợp có vi phạm về việc thành lập hợp đồng (a), trong khi đó hủy hợp đồng là chế tài được sử dụng trong trường hợp không thực hiện hợp đồng (b).
a) Vô hiệu, xử lý vi phạm về thành lập hợp đồng
Từ vô hiệu xuất hiện trong các văn bản luật Cộng đồng và trong các án lệ liên quan đến thương mại quốc tế cũng như trong các quy định pháp điển hóa trong luật châu Âu và luật quốc tế. Một vài văn bản luật Cộng đồng châu Âu và quốc tế về tương đồng hóa các quy phạm xung đột về pháp luật dẫn chiếu đến vô hiệu hay hiệu lực cảu hợp đồng để định nghĩa lĩnh vực mà luật áp dụng. Những văn bản này, tính đến cả những đối tượng của nó cũng không có định nghĩa về vô hiệu. Tuy nhiên, sẽ thú vị khi trong phạm vi của nghiên cứu này, nêu lên những khái niệm đã được sử dụng. Như, điều 8 Công ước Rôm ngày 19/6/1980 về xác định luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng chỉ ra sự tồn tại và giá trị (“existence and validity – sự tồn tại và tính hợp lệ”) của hợp đồng hay các quy định hợp đồng: những vấn đề này sẽ được hiệu chỉnh bởi luật áp dụng nếu hợp đồng có giá trị pháp lý. Điều 10.1.e của Công ước quy định hậu quả trong trường hợp hợp đồng vô hiệu (“nullity – sự vô hiệu, phế bỏ”) cũng chịu sự điều chỉnh của luật áp dụng.Điều 8 Công ước la Haye ngày 14 tháng 3 năm 1978 áp dụng cho hợp đồng trung gian và đại diện không sử dụng từ ngữ “vô hiệu”, nhưng quy định rằng luật áp dụng điều chỉnh vấn đề thành lập hợp đồng và giá trị của hợp đồng (“formation and validity – sự hình thành và tính hợp lệ”) của văn bản và những hậu quả của việc không thực hiện nghĩa vụ ghi torng văn bản này.
Điều 81 đoạn 2 Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu quy định rằng những thỏa thuận hay những quyết định cấu thành một thỏa thuận bị cấm theo các quy định tại điều 81.1 là đương nhiên vô hiệu (“automatically void – tự động vô hiệu”). Sự vô hiệu dự liệu bởi văn bản này nhằm mục đích đảm bảo sự cạnh tranh hiệu quả, cần thiết trong nền kinh tế thị trường, đã được dẫn chiếu ở điều 4.1 của Hiệp ước này. Văn bản này cũng không chỉ ra chế độ của vô hiệu. Những yếu tố chỉ mang tính cộng đồng của chế độ này bị hạn chế. Luật thương mại quốc tế cũng đưa ra các ví dụ về việc sử dụng khái niệm “vô hiệu“. Như vậy, tất cả những hợp đồng trái với trật tự công cộng quốc tế sẽ bị vô hiệu. Án lệ của Pháp làm rõ hơn cho trào lưu này. Tòa phúc thẩm Paris đã hủy một hợp đồng mau bán vũ khí chiến tranh vì hợp đồng này đã thực hiện việc buôn lậu “trái với trật tự công cộng quốc tế“. Cũng chính tòa án này đã coi một hợp đồng “có mục đích và đối tượng thực hiện việc buôn lậu là trái với trật tự công cộng quốc tế của Pháp cũng như đạo đức kinh doanh quốc tế trong quan niệm của phần lớn các quốc gia trong cộng đồng quốc tế“. Hơn nữa, một vài tác giả xem vô hiệu, hay ít nhất là không có khả năng thực hiện việc cưỡng chế thực hiện một hợp đồng có được do tham nhũng, là một quy định xuyên quốc gia. Luật trọng tài quốc tế cung cấp một trường hợp đặc biệt sử dụng từ “vô hiệu” liên quan đến điều khoản trọng tài: Vô hiệu hiển nhiên của một điều khoản là khái niệm rất thường gặp trong án lệ của Pháp liên quan đến thẩm quyền của hội đồng trọng tài và của thẩm phán quốc gia trong viêc giải quyết vụ việc. Vì vậy, án lệ của Pháp, cùng với việc mở rộng hiệu lực thực tế của nguyên tắc tự xác định thẩm quyền của chính mình của hội đồng trọng tài đã xét xử, các tòa án quốc gia không thể dựa vào lý do vô hiệu hiển nhiên của điều khoản trọng tài để giải quyết vụ tranh chấp; nếu hội đồng trọng tài vẫn chưa xét xử, các thẩm phán quốc gia vẫn không có thẩm quyền xét xử, trừ trường hợp vô hiệu hiển nhiên của điều khoản trọng tài.  Tuy nhiên, phải chỉ ra rằng cách hiểu này không phổ biến trong luật trọng tài quốc tế.
Trong Bộ nguyên tắc pháp luật hợp đồng châu Âu (PDEC), Bộ luật Hợp đồng Hợp đồng châu Âu (Viện của các luật gia tư pháp châu Âu – PAVIE, Dự luật PAVIE) và Bộ nguyên tắc UNDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 (Principes Undroit), vô hiệu (“avoidance” theo nghĩa tiếng Anh) là chế tài làm hợp đồng vô hiệu vì không thể thực hiện được ngay từ đầu, dthiếu sự thỏa thuận hoặc do sự bất bình đẳng trong quan hệ hợp đồng. Chương 4 của PDEC điều chỉnh hiệu lực của hợp đồng (“validity – sự có giá trị“). Những điều luật trong phần này chỉ ra trường hợp hợp đồng không có hiệu lực toàn bộ hay một phần do vô hiệu hoặc do hủy hợp đồng. Những quy định này cũng chỉ ra những giả thuyết khác nhau: hợp đồng không có hiệu lực không phát sinh do không thể thực hiện được ngay từ đầu (điều 4: 102), vô hiệu do nhầm lẫn (điều 4: 103), do lừa dối (điều 4: 107), do cưỡng ép (điều 4:108) hay vì lợi ích thái quá hay bất chính (điều 4: 109). Điều khoản lạm dụng mà không được thỏa thuận, có thể, trong một số trường hợp, bị hủy bởi một trong các bên (điều 4: 110).
Khái niệm vô hiệu xuất hiện trong nhiều quy định của dự luật PAVIE. Nó được bổ sung bởi khái niệm “hủy”. Dự luật PAVIE tìm kiếm việc thiết lập sự phân biệt về mặt thuật ngữ giữa hai khái niệm này. Vô hiệu có 3 đặc tính cơ bản:
– Thứ nhất, khái niệm này được sử dụng tại phần IV về thành lập hợp đồng. Khoản 1 điều 24 chỉ ra rằng các bên phải tôn trọng tất cả hình thức đặc biệt của hợp đồng nếu không sẽ bị vô hiệu. Điều 35 bắt buộc các bên, về nguyên tắc, phải quay lại hình thức hợp đồng bằng văn bản đối với hợp đồng bị hạn chế rõ như: Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu, hợp đồng chuyển giao hoặc thiết lập quyền thực tế trên tài sản là bất động sản, hợp đồng tặng cho.
Thứ hai, những điều khoản miễn trách nhiệm và hạn chế trách nhiệm trong trường hợp lừa dối hoặc lỗi nghiêm trọng của thụ trái là vô hiệu (điều 106). Tuy nhiên, quy định không đưa ra hậu quả vô hiệu đối với hợp đồng hoặc trách nhiệm của thụ trái.
– Cuối cùng, vô hiệu là đối tượng của những quy định tại các điều từ 140 đến 146 của phần VI về “các bất thường khác của hợp đồng và giải pháp”. Các trường hợp vô hiệu rất đa dạng. Tuy nhiên, chế độ của các trường hợp này lại chung. Hợp đồng bị vô hiệu trong nhiều trường hợp khác nhau được quy định tại điều 140: Những giả thuyết này là khác nhau vì một số giả thuyết liên quan đến sự đối lập với các quy phạm mệnh lệnh, trong khi đó những giả thuyết khác, không thuần nhất hơn, lại liên quan đến sự thiếu vắng những yếu tố cơ bản (sự thỏa thuận của các bên, nội dung và hình thức của hợp đồng), tất cả các giả thiết khác được chỉ ra trong dự luật PAVIE, trong luật Cộng đồng châu Âu hay của các quốc gia thành viên, sự vô hiệu là nguyên nhân của một điều cấm trong luật hình sự, hay vô hiệu một hợp đồng có giá trị nhưng “bị đưa vào một hoạt động bất hợp pháp”. Vô hiệu không tuân theo cùng một chế độ theo những giả thuyết được đưa ra tại điều 140. Thực tế là, những quy định tại các điều khoản sau đó đề cập đến các trường hợp bị vô hiệu khác, như khi hợp đồng trái với trật tự công cộng, đạo đức, một quy phạm mệnh lệnh vì lợi ích chung hoặc để bảo vệ “các tình huống có tầm quan trọng rất lớn về mặt xã hội“. “Khả năng có thể hủy hợp đồng” được đưa ra trong điều 146 dự luật PAVIE chỉ có thể được viện dẫn bởi các bên được pháp luật bảo vệ. Khoản 2 điều 146 liệt kê những trường hợp có thể bị hủy, đặc biệt là trong số đó, theo cách cổ điển, có việc không có năng lực hành vi hay thiếu sự ưng thuận.
Trong Bộ Nguyên tắc Unidroit, chúng ta cũng tìm thấy việc sử dụng khái niệm vô hiệu tại chương 3 về hiệu lực hợp đồng. Việc không thể thực hiện được ngay từ đầu của một trong các bên hay của tài sản là đối tượng của hợp đồng không thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng (điều 3.3). Hợp đồng có thể bị vô hiệu do nhầm lẫn (điều 3.5 đến 3.7), do lừa dối (điều 3.8), do cưỡng bức (điều 3.9) hay do lợi ích thái quá (điều 3.10).
Dự án luật thống nhất của Tổ chức Hài hóa hóa luật thương mại châu Phi (OHADA) tháng 5/2006 về hợp đồng cũng mở rộng tinh thần của các nguyên tắc Undroit. Điều 3.12 quy định rằng “tất cả hợp đồng mà không phù hợp với những điều kiện cần thiết về thành lập hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu”. Từ “hủy hợp đồng” giống theo cách của từ “vô hiệu”, cũng được sử dụng trong những văn bản của luật thực định và những quy định được pháp điển hóa được nêu ở trên.
b) Hủy hợp đồng, xử lý vi phạm do không thực hiện hợp đồng
Khái niệm hủy hợp đồng (“avoidance”) cũng xuất hiện trong Công ước Viên ngày 11/4/1980 về mua bán hàng hóa quốc tế (CVIM). Nó cũng được coi như phương thuốc cuối cùng được khuyến khích bởi Công ước này, khi thực hiện hợp đồng mua bán vì có những lý do thực tiễn. Hủy Hợp đồng có thể được một bên yêu cầu trong trường hợp bên kia có vi phạm cơ bản và trong trường hợp vi phạm một số nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng mua bán (điều 49 – hủy hợp đồng theo yêu cầu cảu người mua và điều 64 hủy hợp đồng theo yêu cầu của người bán). Hủy hợp đồng cũng có thể được sử dụng một cách phòng ngừa: hủy hợp đồng trước thời hạn theo quy định tại điều 72 cho phép một bên có quyền viện dẫn việc hủy hợp đồng “nếu trước ngày thực hiện hợp đồng, có điều hiển nhiên cho thấy một bên sẽ gây ra một vi phạm cơ bản”.
Theo cùng cách trên, luật thống nhất của OHADA về pháp luật thương mại ngày 17/4/1997 ấn định mỗi bên trong quan hệ hợp đồng mau bán hàng hóa có quyền yêu cầu hủy hợp đồng nếu bên kia không thực hiện nghĩa vụ của mình và vi phạm này là vi phạm cơ bản (điều 254 đối với người mua và điều 249 đối với người bán). Điều 254 bổ sung quy định người mua có thể yêu cầu hủy hợp đồng nếu người bán không chuyển giao hàng hóa trong thời hạn đã được người  mua gia hạn thêm. Một cách tương xứng, theo quy định tại điều 259, người bán có thể yêu cầu hủy hợp đồng nếu người mua không nhận hàng trong trường hợp đã cho phép bổ sung thời hạn.
Một số chỉ thị của Cộng đồng châu Âu xem việc hủy hợp đồng là việc xử lý vi phạm bổ sung liên quan đến hợp đồng. Thật vậy, Chỉ thị số 1999/44/CE ngày 25/5/1999 về một số phương thức mua bán và bảo đảm hàng hóa của người tiêu dùng cho phép người tiêu dùng trong trường hợp chuyển giao tài sản không phù hợp có quyền đòi hỏi sửa chữa hàng hóa cho phù hợp, gia3m giá hoặc yêu cầu hủy hợp đồng (điều 3.2). Không thể yêu cầu hủy hợp đồgn nếu sự không phù hợp là không đáng kể (điều 3.6). Chỉ thị không chỉ ra bản chất của chế tài. Khái niệm của Pháp thể hiện việc hủy hợp đồng có hiệu ực hồi tố. Trong các ngôn ngữ khác cũng sử dụng các từ thể hiện hiệu lực hồi tố như “Auflösung” trong tiếng Đức, “rescind – hủy bỏ” trong tiếng Anh (mặc dù từ này làm cho lẫn lộn – xem nghiên cứu tại mục II) hay “resoluzione” trong tiếng Ý. Những phương thức thực thi  việc hủy hợp đồng không được nêu rõ trong Chỉ thị: nó dành cho các quốc gia thành viên quyết định, đặc biệt là đối với tính chất tư pháp hay không của việc hủy hợp đồng.Chúng ta cũng có thể đồng nhất việc hủy hợp đồng theo nghĩa chấm dứt hợp đồng có hiệu lực hồi tố, các quy định tại điều 7.2 chỉ thị số 97/7/CE ngày 20/5/1997 liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực hợp đồng từ xa. thực tế, quy định dự liệu cho người tiêu dùng có thể được hoàn trả một khoản tiền mà họ đã thanh toán trong trường hợp có lỗi khi thực hiện hợp đồng do không cung cấp hàng hóa hay dịch vụ đã yêu cầu.
Tuy nhiên, luật Cộng đồng châu Âu được dẫn xuất ở trên có vẻ như không đưa ra một hệ thống thuật ngữ thống nhất đối với việc xử lý vi phạm cho việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đã được chỉ ra. Thực tế là, ngoài quan hệ giữa nhà chuyên nghiệp với người tiêu dùng, trong một số quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa các nhà chuyên nghiệp lại đề cao một hệ thống thuật ngữ khác. Nếu những quy định số 1475/95 ngày 28/6/1995 liên quan đến thỏa thuận phân phối xe ô tô và Quy định số 1400/2002 ngày 31/7/2002 liên quan đến áp dụng điều 81 khoản 3 của Hiệp ước về những loại thỏa thuận theo chiều dọc và thực tiễn áp dụng trong lĩnh vực ô tô là minh chứng cho việc sử dụng thống nhất khái niệm “đình chỉ hợp đồng” như một từ thay thế cho khái niệm “hủy hợp đồng“. Ngược lại với Quy định số 1475/95, Nghị định số 1400/2002 không dự liệu khả năng đơn phương chấm dứt hợp đồng vì không thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, bản án vừa mới đây của Tòa án Công lý châu Âu ngày 18/1/2007 đã xác định rằng không một quy định nào của Quy định cấm các bên thỏa thuận dự liệu, vì lợi ích của người phân phối, một điều khoản rõ ràng, theo đó, họ có toàn quyền chấm dứt hợp đồng và không cần báo trước trong trường hợp người phân phối vi phạm một trong những nghĩa vụ hợp đồng trong điều khoản nêu ở trên (…). Tuy nhiên, ngay khi nhà phân phối đơn phương chấm dứt một thỏa thuận phân phối ô tô căn cứ vào điều khoản nói trên, việc tôn trọng những điều kiện miễn trừ áp dụng được nêu trong Quy định số 1400/2002 đòi hỏi rằng không những nhà phân phối chỉ ra bằng văn bản những lý do của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng, mà căn cứ vào khoản 6 điều 3 của Quy định nêu trên, người phân phối có quyền nhờ đến “các chuyên gia độc lập, trọng tài, thẩm phán quốc gia, để tranh cãi về giá trị của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng này, đây là phương thức thực hiện việc kiểm soát hữu hiệu những lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng nêu ở trên đây”. Mặt khác, gạch đầu dòng thứ hai, khoản 3 điều 5 của Quy định số 1475/95 sử dụng một từ ngữ khác chỉ ra rằng điều kiện miễn trừ được dự liệu tại khoản 1 và khoản 2 không tước bỏ: “(…) quyền của một bên thực hiện việc đơn phương chấm dứt bất thường một thỏa thuận vì lý do vi phạm một trong những gnhia4 vụ hợp đồng cơ bản của bên kia”. Việc sử dụng khái niệm “đình chỉ hợp đồng” thay thế cho khái niệm “hủy hợp đồng” không xuất hiện một cách ngẫu nhiên khi mà trong các bản dịch tiếng Anh (“termination – chấm dứt“), tiếng Đức (“kündigung – chấm dứt”) hay tiếng Ý (“recesso – rút lui“) cũng sử dụng một khái niệm tương đương. Trong PDEC, Dự luật PAVIE, Bộ Nguyên tắc UNDROIT, việc hủy hợp đồng (“termination“) theo nghĩa tiếng Anh) xử lý vi phạm về việc vi phạm đáng kể nghĩa vụ của một trong các bên trong quan hệ hợp đồng. Trong chương 9 của PDEC với nhan đề “những phương thức khác nhau trong trường hợp không thực hiện”, trái chủ có thể hủy hợp đồng (“terminate“) nếu nhận thấy việc không thực hiện là cơ bản, xác nhận hoặc hiển nhiên có thể dự đoán được (điều 9: 301 và 9: 304).
Theo quy định tại điều 114 dự luật PAVIE, việc hủy hợp đồng có thể được thực hiện bởi trái chủ trong trường hợp không thực hiện đáng kể nghĩa vụ. Có thể hủy một phần hợp đồng: theo quy định tại điều 114.4, nếu thụ trái không thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của mình, trái chủ có thể yêu cầu giảm giá, điều đó có nghĩa là chấp nhận những gì anh ta đã nhận được.
Trong Bộ Nguyên tắc Uniroit, chúng ta cũng tìm thấy việc sử dụng từ “hủy” tại chương 7 liên quan đến việc không thực hiện. Các điều 7.3.1 và 7.3.6 trong phần 3 của Chương 7 cụ thể chế độ hủy hợp đồng. Việc hủy có thể được thực hiện trong trường hợp có vi phạm cơ bản (điều 7.3.1). Nó có thể được viện dẫn trong trường hợp có lỗi cơ bản được xác nhận hoặc hiển nhiên trước khi hợp đồng đến hạn (điều 7.3.3).
Dự án Luật thống nhất của OHADA về hợp đồng nêu trên dự liệu tại điều 7.13 rằng một bên có thể hủy hợp đồng nếu bên kia không thực hiện một nghĩa vụ cơ bản, và việc không thực hiện này là xác nhận hoặc hiển nhiên có thể dự đoán được (điều 7.15).
Các khái niệm “vô hiệu” và “hủy” cũng được viện dẫn theo cách gián tiếp khi ta nghiên cứu hậu quả của việc hủy hay vô hiệu đối với hợp đồng hoặc trong một số quy định của hợp đồng.

2. Những trường hợp sử dụng gián tiếp
Vấn đề hậu quả của vô hiệu hoặc không tồn tại của hợp đồng được đặt ra khi thực hiện cac quy định liên quan đến các điều khoản tranh chấp. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, vấn đề nội dung không được đặt ra mà chỉ phân tích để biết liệu vô hiệu hay không tồn tại của hợp đồng có được hiểu theo nghĩa gắn kết với nghĩa mà các khái niệm này thể hiện trong các trường hợp sử dụng trực tiếp hay không.
Đầu tiên, liên quan đến thẩm quyền quốc gia, vấn đề được đặt ra đối với việc thực thi thẩm quyền của Tòa án về hợp đồng quy định tại khoản 5.1 Quy định số 44/2002 ngày 22/12/2000. Nếu dựa vào điều khoản này, thẩm phán của một nước thành viên được lựa chọn để đánh giá những hậu quả của việc không thực hiện hợp đồng, dù tính chất của chế tài được áp dụng đối với việc không thực hiện hợp đồng là thế nào, thì liệu cũng dựa trên cơ sở này, thẩm phán đó, trong lĩnh vực hợp đồng theo nghĩa của quy định nêu trên, có thẩm quyền tuyên bố một hợp đồng bị vô hiệu hoặc không tồn tại không? Tòa án Công lý châu Âu (CJCE) đã khẳng định rằng, nguyên đơn có thể hưởng lợi theo cach hiểu mở rộng điều 5.1 đối với việc tranh chấp chỉ về thành lập hợp đồng. Giải pháp này dựa trên ý tưởng là thẩm phán phải đánh giá thẩm quyền của mình ngay cả khi, để làm việc này, thẩm phán đó phải kiểm tra các yếu tố cấu thành hợp đồng. Tuy nhiên, trong bản án này, Tòa án Công lý châu Âu đã tuyên bố việc vô hiệu được viện dẫn để bảo vệ việc không có thẩm quyền đặc biệt chứ không phải là một hành động liên quan chủ yếu đến vấn đề đã nêu. Tòa Tối cao Pháp cho rằng hành động như vậy chỉ được đưa ra torng lĩnh vực hợp đồng theo nghĩa của điều 5.1 đã nêu ở trên. Thẩm phán sẽ đánh giá hậu quả của việc vô hiệu hợp đồng và không tồn tại hợp đồng.
Tiếp theo, liên quan đến việc thực thi điều khoản trọng tài, đặt ra vấn đề về hậu quả của vô hiệu hoặc không tồn tại của hợp đồng có bao hàm một điều khoản trọng tài. Câu trả lời là, bất kể người nào được kể đến, điều khoản trọng tài vẫn có giá trị: Điều khoản này không bị ảnh hưởng bởi việc xem xét tính hiệu lực của hợp đồng, việc thành lập hợp đồng mà điều khoản trọng tài đó được đưa vào. Việc vô hiệu, hủy hay đình chỉ hợp đồng mà trong đó điều khoản trọng tài được quy định là không liên quan đến hiệu lực của điều khoản trọng tài. Bất kể lý do nào của những việc này hay bất kể chế độ nào được áp dụng, điều khoản trọng tài vẫn tồn tại và độc lập. Từ quan điểm này, việc tìm kiếm thuật ngữ được sử dụng đề miêu tả sự kiện ngăn cản một hợp đồng tồn tại trong đời sống pháp lý là không cần thiết. Có thể chỉ ra những minh họa cho điều này trong các nguồn khác nhau này. Điều 8 của Quy tắc tố tụng trọng tài của Phòng thương mại Quốc tế (CCI) quy định rằng “trừ trường hợp có quy định ngược lại, một trường hợp vô hiệu hay sự không tồn tại của hợp đồng không kéo theo việc không có thẩm quyền của trọng tài, nếu thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Trọng tài cũng có thẩm quyền ngay cả trong trường hợp không tồn tại của hợp đồng hay vô hiệu một hợp đồng đề xác định các quyền lợi riêng của các bên và quyết định đối với các yêu cầu và kết luận của họ. Luật của các quốc gia về trọng tài thương mại quốc tế cũng thừa nhận quan điểm về nguyên tắc độc lập cảu điều khoản trọng tài: Vì vậy, khoản 3 điều 178 Luật tư pháp quốc tế Thụy sỹ ngày 18/12/1987 tuyên bố rằng “hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài không thể bị tranh cãi với lý do rằng hợp đồng chính không có hiệu lực”. Luật mẫu của CNUDCI về trọng tài thương mại quốc tế năm 1985 công nhận nguyên tắc tự do cũng quy định rằng việc một hợp đồng vô hiệu không hoàn toàn kéo theo việc vô hiệu của điều khoản trọng tài. Trong các án lệ của trọng tài hay án lệ của Tòa án cũng chấp nhận nguyên tắc độc lập của điều khoản trọng tài. Bản án ngày 25/10/2005 của Tòa tối cao Pháp đã thể hiện xu hướng này: Nó coi rằng, trong lĩnh vực quốc tế “áp dụng nguyên tắc hiệu lực và sự độc lập của thỏa thuận trọng tài trong lĩnh vực quốc tế, vô hiệu và không tồn tại của hợp đồng cũng không ảnh hưởng đến điều khoản trọng tài“. Từ cách diễn đạt này, có thể thấy, việc vô hiệu và sự không tồn tại hợp đồng được đặt ngang nhau. Tuy nhiên, một số tác giả chiếm thiểu số, đề nghị phân tách giả thuyết về không tồn tại hợp đồng, vì theo họ, trường hợp này phải áp dụng sang cả đối với việc thực hiện điều khoản trọng tài. Phải chỉ ra rằng, án lệ cũng cho phép duy trì thẩm quyền của trọng tài; người ta vẫn ghi nhận rằng khi “không một thỏa thuận chính nào tồn tại, cần thiết phải tránh rút ra những hậu quả pháp lý có thể có của việc không tồn tại này, bởi bản chất, các bên không thể có được thỏa thuận trọng tài“.
Chế độ tín dụng quốc tế bởi chữ ký cũng cho phép nghiên cứu về hậu quả của việc vô hiệu hợp đồng thương mại gốc đối với thực hiện việc cho vay. Nguyên tắc chung được khẳng định bằng phần lớn các án lệ trọng tài hoặc của Tòa án và bằng phần lớn các quy định mang tính chuyên môn như những quy tắc và thông lệ thống nhất của Phòng Thương mại quốc tế (RUU), là nguyên tắc độc lập về tín dụng do chữ ký đối với hợp đồng thương mại gốc. Vô hiệu, hủy hay chấm dứt hợp đồng gốc, về nguyên tắc, là không có hậu quả. Chúng ta thấy ở đây sự đồng nhất thuật ngữ đã là hiển nhiên so với điều khoản trọng tài. Sự độc lập của cam kết ngân hàng bị gạt ra trong trường hợp có lỗi hay có lạm dụng rõ rệt. Tuy nhiên, một vài tác giả đã khẳng định rằng ngay khi vô hiệu hợp đồng gốc là kết quả của việc xâm phạm nghiêm trọng trật tự công cộng, vô hiệu vẫn có thể được viện dẫn để làm tê liêt cam kết ngân hàng. Trường hợp vô hiệu cá biệt này là kết quả của việc hoạt động ngân hàng cho phép việc sản xuất và bán thuốc phiện hay xây dựng nhà máy sản xuất hạt nhân vi phạm công ước quốc tế. Các án lệ thỉnh thoảng cũng chấp nhận rằng sự bất hợp pháp như vậy là một ngoại lệ về ngân hàng phải trả tiền: ví dụ, thượng viện Anh coi rằng một tín dụng thư trái với thỏa thuận Breton Woods có thể không được thực hiện. Nếu các khái niệm “vô hiệu” hay “hủy bỏ hợp đồng” thường xuyên được sử dụng, thì những chế độ của nó lại không được thể hiện một cách gắn kết và thống nhất trong các nguồn văn bản khác nhau.

B. Sự không ổn định của các chế độ gắn với các khái niệm “vô hiệu” và “hủy bỏ hợp đồng”.

Nghiên cứu cách hiểu của Cộng đồng châu Âu và quốc tế liên quan đến các chế độ vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng, thấy rằng các yếu tố không được định nghĩa theo một cách thống nhất và rõ ràng. Tuy nhiên, về điểm này, vô hiệu thể hiện tính thuật ngữ ổn định lớn hơn so với hủy hợp đồng.

1. Sự rõ ràng tương đối của chế độ vô hiệu

Trong các nguồn nghiên cứu, hai điểm chung được nêu để làm rõ nét chế độ vô hiệu: vô hiệu có hiệu lực hồi tố và vô hiệu chỉ phát sinh khi tập hợp đủ các điều kiện. Tuy nhiên, vẫn còn những khác biệt đáng kể. Nó đòi hỏi những thể thức khác nhau trong việc thông báo. Hơn nữa, những phương diện khác của chế độ vô hiệu không được quy định một cách thống nhất. Chế độ của Cộng đồng châu Âu về vô hiệu được quy định tại điều 81 khoản 2 của Hiệp ước CE đã được làm rõ trong thực tiễn xét xử nhưng dù sao đi nữa vẫn còn rất hạn chế. Vô hiệu có thể được yêu cầu bởi tất cả những người có liên quan, các bên hoặc người thứ ba trong thỏa thuận hay trong quyết định: thực tiễn xét xử khẳng định rằng vô hiệu là tuyệt đối. Thực tiễn xét xử cũng đã chỉ ra rằng tất cả các điều khoản trái với các quy định Cộng đồng đều vô hiệu. Cuối cùng, thực tiễn xét xử cũng chỉ ra rằng vô hiệu có hiệu lực hồi tố. Nhưng luật quốc gia sẽ quyết định những yếu tố khác của chế độ vô hiệu: Thời hiệu, mở rộng việc vô hiệu đối với toàn bộ hợp đồng hay những thỏa thuận khác liên quan đến một thỏa thuận bị xét xử, hoàn trả tài sản.
Chế độ vô hiệu ít được quy định trong PDEC và trong các nguyên tắc UNDROIT. Trong PDEC, hủy bỏ hợp đồng do vô hiệu không đòi hỏi sự can thiệp của Thẩm phán hay trọng tài. Nó được thực hiện bằng việc một bên thông báo cho bên kìa (điều 4:112). Điều 4.115 chỉ ra rằng hủy bỏ hợp đồng do vô hiệu mang đến cho mỗi bên quyền được yêu cầu hoàn lại tài sản mà bên đó đã cung cấp để thực hiện hợp đồng. Việc hoàn trả bằng tiền sẽ được thực hiện nếu việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện được. Vô hiệu, như quy định trong các Nguyên tắc UNDROIT, có thể được một trong các bên yêu cầu thông qua một thông báo (điều 3:14). Vô hiệu có thể toàn bộ hoặc một phần (điều 3:16). Điều 3:17 quy định rằng hủy hợp đồng có hiệu lực hồi tố và việc một bên hoàn lại tài sản đã được bên kia chuyển giao cho mình phải bằng hiện vật hoặc bằng tiền, nếu việc chuyển giao bằng hiện vật không thể thực hiện được.
Trong dự luật PAVIE, chế độ vô hiệu xuất hiện một cách cụ thể hơn. Có sự phân biệt giữa vô hiệu tuyệt đối và toàn bộ với vô hiệu tương đối và một phần. Trong trường hợp mà hợp đồng trái với trật tự công cộng, đạo đức và quy tắc mệnh lệnh vì lợi ích chung hoặc bảo vệ “những tình huống có tầm quan trọng đặc biệt đối với xã hội” (điều 140 khoản 1), vô hiệu là tuyệt đối và chỉ có thể bị loại trừ bằng một sự khẳng định. Trong những trường hợp khác theo quy định tại điều 140, vô hiệu có thể là toàn bộ hoặc một phần (điều 144) và cần phải được khẳng định (điều 143). Về nguyên tắc vô hiệu một phần chỉ có thể được tuyên bố, với điều kiện là phần hợp đồng còn lại, mà không phải là phần bị vô hiệu, phải rõ ràng, có giá trị và được thực hiện “một cách hợp lý mục tiêu mà các bên theo đuổi” (điều 144 khoản 1). Tuy nhiên, bất kể loại vô hiệu nào, hiệu lực chung của nó đều được định nghĩa tại điều 141: vô hiệu có hiệu lực hồi tố, kéo theo việc hoàn lại tài sản đã được quy định tại điều 161 và có thể kéo theo, trách nhiệm của mỗi bên vì những thiệt hại mà mình gây ra đối với người thứ ba ngay tình, người mà “đã tính đến việc hợp đồng được thiết lập“. Vô hiệu, bất kể do nguyên nhân gì, về nguyên tắc, chỉ xảy ra khi những điều kiện của nó được thiết lập. Dự luật PAVIE chỉ ra thời hạn của việc thông báo: Bên yêu cầu vô hiệu phải gửi thông báo đến bên kia về việc hủy hợp đồng do vô hiệu trong thời hạn 10 năm, đối với vô hiệu toàn bộ, tính từ ngày ký kết hợp đồng, ba năm đối với vô hiệu một phần, và có thể yêu cầu tòa án tuyên bố vô hiệu theo những điều kiện về thời hạn được quy định tại điều 141. Bên có liên quan phải thông báo về việc hủy bỏ hợp đồng cho bên kia trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày không có khả năng thực hiện hoặc việc cưỡng bức chấm dứt, khi nhầm lẫn bị phát hiện, hoặc trong những trường hợp khác, tính từ ngày ký kết hợp đồng. Có thể tránh việc hủy bỏ hợp đồng do vô hiệu bằng việc xác nhận hợp đồng, cách thức của việc xác nhận được quy định tại điều 149. Nếu việc hủy bỏ hợp đồng do vô hiệu được thực hiện, nó kéo theo việc chấm dứt hợp đồng với hiệu lực hồi tố và các bên phải hoàn trả lại cho nhau, bên có lỗi gây ra hợp đồng vô hiệu phải bồi thường thiệt hại (điều 147).
Dự án về  Luật Thống nhất của OHADA về hợp đồng đã thiết lập một chế độ vô hiệu tương đối đầy đủ. Theo cách của các văn bản đã viện dẫn ở trên, nó dự kiến việc hủy bỏ hợp đồng do vô hiệu được thực hiện bằng việc thông báo (điều 3.16) và có hiệu lực hồi tố (điều 3.19). Dự án này đề nghị phân biệt vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối theo bản chất của điều kiện thành lập hợp đồng đã bị vi phạm: Nếu việc vô hiệu được ấn định để bảo vệ lợi ích chung, đó là vô hiệu tuyệt đối (điều 3.13), nếu để bảo vệ lợi ích cá nhân, vô hiệu là tương đối (điều 3.14). Chế độ của hai loại vô hiệu này là khác nhau. Theo cách cổ điển, vô hiệu tuyệt đối có thể được đưa ra bởi tất cả các đương sự, có thể được tòa án tuyên bố bắt buộc và không cần có xác nhận. Vô hiệu tương đối chỉ có thể được đưa ra bởi một bên được bảo vệ, không thể được tuyên bố bắt buộc bởi Tòa án và cần phải có xác nhận, theo pháp luật hoặc ngầm hiểu. Trong tất cả các trường hợp, chỉ có thể vô hiệu một phần trừ khi việc giữ lại hợp đồng đã bị bỏ đi những điều khoản vô hiệu là không hợp lý (điều 3.18). Theo quy định của điều 3.17, thông báo về việc hủy hợp đồng do vô hiệu phải được thực hiện trong thời một thời hạn hợp lý từ thời điểm bên yêu cầu hợp đồng vô hiệu biết được hoặc không thể không biết những lý do làm hợp đồng vô hiệu. Chế độ về hủy hợp đồng là kém chắc chắn hơn chế độ vô hiệu hợp đồng trong những nguồn luật khác nhau được phân tích.

2. Sự không chắc chắn của chế độ hủy hợp đồng.
Trong phần lớn các văn bản đã nghiên cứu, hủy hợp đồng không mang tính tư pháp. Ngược lại, sự khác nhau đã nảy sinh về hiệu lực của quy định này: hiệu lực hồi tố không phải lúc nào cũng được thể hiện một cách rõ ràng và thống nhất. Trong quy định của Công ước mua bán hàng hóa quốc tế (CVIM), hủy hợp đồng không mang tính tư pháp. Về nguyên tắc, hủy hợp đồng là hủy toàn bộ. Có ngoại lệ, hủy hợp đồng có hiệu lực một phần đối với việc bán hàng được thực hiện có kì hạn hay việc chuyển giao hàng hóa nhưng chỉ có một phần phù hợp với những điều khoản hợp đồng. Hủy hợp đồng giải phóng nghĩa vụ cho các bên trong tương nhưng trong một vài phương diện, hủy hợp đồng cũng kéo theo hiệu lực hồi tố. Nghĩa vụ chưa được thực hiện kể từ ngày hủy hợp đồng bị chấm dứt (điều 81). Tuy nhiên, CVIM chỉ ra rằng, trái chủ có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại (cách tính được quy định tại các điều 74 và 77) và một số điều khoản vẫn còn tồn tại (những điều khoản liên quan đến quy định về giải quyết tranh chấp và những quy định chính xác về hậu quả của việc hủy hợp đồng). Bên đã thực hiện toàn bộ hay một phần nghĩa vụ có thể yêu cầu hoàn trả (điều 81.2). Cuối cùng, đối với việc hủy hợp đồng mua bán được thực hiện từng phần, khoản 1 điều 73 quy định, trong một số điều kiện, trái chủ có quyền tuyên bố “hủy hợp đồng cho tương lai” (“contrat avoided for the future“) cho toàn bộ hợp đồng với lý do không thực hiện nghĩa vụ liên quan đến việc giao hàng: hủy hợp đồng torng tương lai này gần giống với đình chỉ hợp đồng trong thuật ngữ của Pháp, ngay cả khi trong tiếng Pháp, khái niệm được sử dụng trong văn bản này là “hủy hợp đồng“.
Luật Thống nhất của OHADA về thương mại chung có điểm khác là người bán hay người mua phải yêu cầu hủy hợp đồng tại tòa án có thẩm quyền (điều 254 và điều 259), Luật thống nhất OHDA cũng ưu tiên việc kiểm soát tư pháp đối với việc hủy hợp đồng được viện dẫn. Hủy hợp đồng “giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ của mình“. Các bên có thể được bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng không có hiệu lực đối với những điều khoản giải quyết tranh chấp và những điều khoản, nếu có, quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp hủy hợp đồng. Điều 270 quy định rằng bên đã thực hiện toàn bộ hay một phần hợp đồng có thể yêu cầu bên kia hoàn lại những gì đã nhận. Chế độ hủy hợp đồng cũng là kém chắc chắn trong các dự án pháp điển hóa.
Dự luật PAVIE không chỉ ra một cách rõ ràng hiệu lực của việc hủy hợp đồng. Điều 114.3 quy định rằng trái chủ không thể đòi hỏi thực hiện nghĩa vụ và thụ trái cũng không phải thực hiện những nghĩa vụ đó; điều 114.5 chỉ ra rằng nếu việc thực hiện hợp đồng được quy định có thời hạn, hủy hợp đồng không có hiệu lực đối với những gì đã được thực hiện trước đó. Liệu từ quy định này ta có thể suy ra rằng, về nguyên tắc, hủy hợp đồng có hiệu lực hồi tố trừ trường hợp hủy bỏ hợp đồng, các bên phải hoàn lại cho nhau những gì đã nhận và có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại (điều 115).
Các nguyên tắc UNDROIT dự liệu rằng hủy hợp đồng có thể được yêu cầu bởi một bên bằng việc th6ng báo tới bên kia. Hiệu lực của việc hủy bỏ hợp đồng được quy định tại các điều 7.3.5 và 7.3.6. Nguyên tắc rất đơn giản: hủy bỏ hợp đồng chỉ được tiến hành trong tương lai. Tuy nhiên, hủy bỏ hợp đồng không có hiệu lực đối với các điều khoản giải quyết tranh chấp và đối với tất cả các điều khoản khác chỉ phát sinh hiệu lực sau khi hủy bỏ hợp đồng (ví dụ, theo những bình luận về điều 7.3.5. một số điều khoản về giữ bí mật). Các bên có thể hoàn lại cho nhau những gì đã nhận, về nguyên tắc là bằng hiện vật. Nếu hợp đồng được thực hiện từng phần, việc hoàn lại tài sản chỉ được thực hiện đối với giai đoạn sau khi hủy hợp đồng.
Hủy hợp đồng được xem xét trong PDEC không cần có sự can thiệp của thẩm phán hoặc trọng tài: Về nguyên tắc, nó được tiến hành bởi một thông báo (điều 9:303). Hậu quả của việc hủy hợp đồng được quy định tại điều 9:305: Hủy hợp đồng chỉ cho tương lai và không ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ đã sinh ra tại thời điểm hủy bỏ hợp đồng được thực hiện. Những bình luận về quy định này giải thích rõ đặc tính không có hiệu lực hồi tố của hủy hợp đồng bởi các tranh luận thực tế: trái chủ cần phải được bảo lưu quyền đòi bồi thường thiệt hại và những điều khoản được ấn định để giải quyết trong trường hợp tranh chấp cần phải có hiệu lực. Như vậy, việc hủy hợp đồng không có hiệu lực hồi tố là cần thiết.
Dự luật thống nhất của OHADA về hợp đồng được nêu ở trên, quy định rằng việc hủy hợp đồng được được trái chủ tiến hành bằng một thông báo trong một thời hạn hợp lý (quá thời hạn này, trái chủ mất quyền yêu câu hủy hợp đồng theo quy định của điều 7.14). Điều 7.17 quy định rằng hủy hợp đồng “giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ trong tương lại“. Nó không tác động tới những điều khoản liên quan đến việc giải quyết tranh chấp và tất cả những điều khoản khác quy định về mối quan hệ giữa các bên sau khi đã hủy hợp đồng. Các bên có thể hoàn lại cho nhau những gì đã nhận bằng hiện vật hoặc bằng tiền (điều 7.18). Đối với các hợp đồng thực hiện từng phần (điều 7.18 nêu ra những hợp đồng mà trong đó việc thực hiện bị kéo dài theo thời gian và có thể chia được thành từng phần), việc hoàn lại tài sản chỉ liên quan đến thời điểm sau khi hủy hợp động. Việc sử dụng những khái niệm khác của “vô hiệu” và “hủy hợp đồng” đã làm phức tạp hệ thống thuật ngữ.

II. SỰ LỘN XỘN CỦA NHỮNG KHÁI NIỆM BỔ SUNG

Những nguồn luật khác nhau được nghiên cứu trong khuôn khổ nghiên cứu này cũng sử dụng một số khái niệm để đánh giá việc một hợp đồng không có hoặc không còn giá trị pháp lý. Sự gia tăng của khái niệm này làm chúng xuất hiện khá lộn xộn: Đầu tiên, chúng ta sẽ hướng tới việc nhận dạng những khái niệm bổ sung này (A). Ngay cả khi một số trong số các khái niệm này cùng từ một nguồn văn bản, chúng cũng không tuân theo một chế độ thống nhất và rõ ràng (B). Tuy nhiên, trong khuôn khổ luật Cộng đồng châu Âu, dự tính cho một chế độ thống nhất đã được phát thảo liên quan đến quyền thu hồi, thuật ngữ được sử dụng một cách rộng rãi trong các chỉ thị của châu Âu liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng (C).

A. Sự phình ra của các khái niệm bổ sung 

Một vài khái niệm bổ sung được sử dụng trong các án lệ liên quan đến hợp đồng quốc tế. Ví dụ, Tòa tối cao Pháp đã từng quyết định rằng, trong một hợp đồng lao động quốc tế, điều khoản trọng tài không “bắt buộc” đối với người lao động khi anh ta lựa chọn Tòa án Pháp có thẩm quyền, bất kể luật nào áp dụng cho hợp đồng lao động. Mặt khác, Tòa xã hội của Tòa án Pháp đã coi rằng một điều khoản quy định thẩm quyền của Tòa án được đưa vào trong hợp đồng lao động quốc tế là “điều khoản đươc coi như không tồn tại” khi mà Tòa án Pháp là tòa án có thẩm quyền giải quyết căn cứ vào các quy định về xung đột thẩm quyền. Những khái niệm bổ sung này được sử dụng chủ yếu trong các dự án pháp điển hóa, châu Âu hoặc luật quốc tế, và chúng cần được xem xét cụ thể hơn.
Trong PDEC, dự luật PAVIE và các nguyên tắc UNIDROIT, những khái niệm “vô hiệu” và “hủy” đã được nêu ra. Những khái niệm này minh họa cho sự khác biệt và nhập nhằng của hệ thống thuật ngữ. PDEC ấn định một hợp đồng “không có hiệu lực” khi mà hợp đồng trên là bất hợp pháp (1); các nguyên tắc UNIDROIT dự liệu trong một vài trường hợp một bên không thể dựa vào điều khoản miễn trách nhiệm (“the clause “may not be invoked” – điều khoản không được viện dẫn””) (2); từ quan điểm này, dự luật PAVIE là phong phú về thuật ngữ nhất vì đã đưa ra các khái niệm đa dạng như: Đình chỉ hợp đồng, không có hiệu lực, không tồn tại hợp đồng và không có hiệu lực với người thứ ba (3). Cuối cùng, sự lộn xộn của hệ thống thuật ngữ liên quan đến số phận của hợp đồng có thể tính được trong trường hợp có thay đồi hoàn cảnh khi so sánh với những quy định tại ba văn bản nêu trên (4).

1. Hợp đồng không có hiệu lực 

Chương 15 PDEC liên quan đến tính trái pháp luật cảu hợp đồng sử dụng thuật ngữ khác biệt với vô hiệu: Hợp đồng bất hợp pháp sẽ bị “tước đi hiệu lực” hoàn toàn hay một phần. Bình luận về điều 15:101 chỉ ra rằng việc thể hiện khái niệm này được lựa chọn sau khi đã cân nhắc kỹ để xóa di những quan niệm mang tính quốc gia và lựa chọn một thuật ngữ có nghĩa rộng, có thể bao trùm các tình huống khác nhau như là vô hiệu, có thể bị vô hiệu và không thể viện dẫn trước tòa án về việc thực hiện hợp đồng. Hai giả thuyết khác nhau về hợp hợp đồng bất hợp pháp và có hiệu lực được xem xét. Giả thuyết đầu tiên liên quan đến hợp đồng trái với những nguyên tắc được thừa nhận như các nguyên tắc cơ bản của pháp luật các quốc gia thành viên (điều 15:101). Hợp đồng vì thế sẽ vô hiệu, bị tước toàn bộ hiệu lực (“the contract is of no effecthợp đồng không có hiệu lực“). Nếu hợp đồng trái với những quy phạm mệnh lệnh (điều 15:102), thì hậu quả của sự vi phạm này sẽ được định nghĩa bởi các quy phạm vi phạm, hoặc nếu không, bởi PDEC. (Hay).
Điều 6:111 liên quan đến việc thay đổi hoàn cảnh dự liệu rằng nếu không có thỏa thuận giữa các bên (trong một thời hạn hợp lý) để điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp có sự thay đổi về hoàn cảnh thì tòa án có thể “chấm dứt” hợp đồng vào ngày và theo những điều kiện mà Tòa án quy định. bình luận về điều này cho thấy rằng, Thẩm phán sẽ quyết định cách thức và đặc biệt là hiệu lực hồi tố của việc hủy hợp đồng theo từng cấp độ tiến triển của việc thực hiện hợp đồng.

2. Cấm viện dẫn vào một điều khoản (Nguyên tắc UNIDROIT)

Theo khái niệm tại điều 7.16 của các Nguyên tắc UNIDROIT, một bên không thể “viện dẫn” một điều khoản hạn chế hay ngoại trừ trách nhiệm hay một điều khoản cho phép bên đó “thực hiện một công việc có nội dung khác với công việc mà một cách hợp lý bên kia đã trông đợi” nếu khi  “chú ý đến mục đích của hợp đồng, (…) rõ ràng là sẽ không công bằng khi làm điều đó“. Bình luận về quy định này, nhắc lại rằng về nguyên tắc, nếu một điều khoản như thế này có giá trị, thẩm phán hoặc trọng tài sẽ có quyền điều chỉnh dựa trên sự công bằng. Nếu một quyền như thế này được thực hiện, một bên không thể được viện dẫn điều khoản đó (“may not invoi the clause“) và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.

3. Mở rộng việc đăng ký hệ thống thuật ngữ bởi dự luật PAVIE

Dự luật PAVIE xứng đáng là một trông đợi đặc biệt vì sự đa dạng của các khái niệm được sử dụng bên cạnh vô hiệu và hủy hợp đồng. Nếu tuân theo trật tự giới thiệu của phần II (“những trường hợp bất thường và các cách khắc phục“), hợp đồng có thể bị coi là không tồn tại (điều 137 và 138), mất hiệu lực (điều 142), không có hiệu lực (điều 153), không có hiệu lực đối với người thứ ba (điều 156) hoặc chấm dứt trong trường hợp hợp đồng với người tiêu dùng (điều 159). Ngoài ra, điều 139 quy định về điều khoản được coi như chưa tồn tại. Mỗi một loại khái niệm tương ứng với một nguyên nhân đặc biệt. Ngược lại, chế độ gắn liền giữa chúng có thể được thể hiện theo cách thống nhất trên một vài phương diện.
Điều 137 quy định về không tồn tại hợp đồng. Quy định này không đưa ra khái niệm thế nào là không tồn tại. Nó đưa ra những ví dụ không mang tính hạn chế về trường hợp mà trong đó thiếu vắng “khái niệm xã hội của hợp đồng” (điều 137.1). Các điều 137.2a và 137.2b viện dẫn tương ứng cho giả thuyết mất hoặc hạn chế về năng lực pháp lý của người nhận được chào hàng hay tuyên bố hoặc sự không tồn tại của đối tượng của chào hàng hay tuyên bố. Các điểm c và d xem xét những tình huống trong đó việc chấp nhận hay tình huống tồn tại nhưng không thể mong muốn đạt tới đời sống pháp lý của một hợp đồng: chấp nhận không tương ứng với chào hàng trong đó nội dung thì lập lờ và tình huống thì không đầy đủ. Điều 137 chỉ ra rằng trong trường hợp nghi ngờ, thì phải đặt ra việc xác định việc vô hiệu và chế độ vô hiệu hợp đồng.
Mất hiệu lực theo điều 142 là một loại vô hiệu khác. Nó tương ứng với một hoàn cảnh đặc biệt: một yếu tố cơ bản bị thiếu, một cách độc lập với ý chí của các bên, sau khi hình thành hợp đồng. Không có hiệu lực được định nghĩa tại điều 153 như một giả thuyết, trong đó hợp đồng được ký kết có hiệu lực nhưng không phát sinh hiệu lực một cách tạm thời hoặc vĩnh viễn. Hợp đồng có thể không có hiệu lực theo ý chí của các bên hoặc theo pháp luật. Ý chí của các bên có thể làm cho hợp đồng không có hiệu lực theo nghĩa của quy định này nếu nó là giả tạo, hoặc hiệu lực của nó phụ thuộc vào điều kiện và thời hạn hoặc nếu các bên đã quy định phải có một sự cho phép trước. Không có hiệu lực có thể do luật quy định. Ba trường hợp được kể ra tại điều 153.4: Trường hợp hợp đồng được ký kết hoặc tuyên bố được đưa ra không có ý thức để thực hiện một văn bản dự định phát sinh hiệu lực pháp luật, những trường họp đạt được đồng ý sơ bộ hay tán thành của một số tổ chức công cộng hay một cá nhân và cuối cùng là những trường hợp mà luật Cộng đồng châu Âu hay luật của các quốc gia thành viên dự liệu rằng hợp đồng là không có hiệu lực.
Điều 154 hướng đến hợp đồng không có hiệu lực đối với người thứ ba hay nhiều người thứ ba trong những trường hợp khác nhau, ví dụ như hợp đồng giả tạo hay hai bên cố tình ký kết hợp đồng có gian lận đối với quyền của trái chủ của một rong hai bên. Không có hiệu lực đối với người thứ ba sinh ra từ sự tập hợp các điều kiện nhưng các đương sự mong muốn viện dẫn (đặc biệt là trái chủ trong các trường hợp nêu trên) phải gửi một thông báo trước khi hết thời hiệu là 3 năm hoặc trước khi hết thời hạn đó, yêu cầu tòa án tuyên bố tính không có hiệu lực đối với người thứ ba. Bên thứ ba có thể, theo quy định tại điều 161, yêu cầu được bồi thường thiệt hại “vì một cách ngay tình, đã tin vào hợp đồng đã được tạo lập“.
Điều 156, hủy bỏ hợp đồng, được đưa tại Chương 2 phần IX thừa nhận việc hủy bỏ hợp đồng do gây thiệt hại, dự kiến tại Điều 30.3: “có thể được hủy bỏ, theo quy định tại điều 156, tất cả các hợp đồng mà trong đó một trong các bên lạm dụng tình trạng nguy hiểm, cần thiết, không có năng lực để hiểu và mong muốn, không có kinh nghiệm, lệ thuộc về kinh tế và tinh thần của bên kia, khiến bên kia hứa hay thực hiện cho mình hay người thứ ba một công việc hay những lợi ích về tài sản khác một cách hiển nhiên không cân xứng đối với cái mà mình đã thực hiện hoặc đã hứa“.
Cuối cùng, điều 159 quy định “đình chỉ hợp đồng được thực hiện bởi người tiêu dùng”. Việc đình chỉ hợp đồng có thể được viện dẫn bởi người tiêu dùng liên quan đến “hợp đồng hoặc đề nghị của người đó” trong trường hợp giao dịch được ký kết bên ngoài trụ sở thương mại (điều 9). Điều 159 chỉ ra rằng người bán hàng chuyên nghiệp được giải thoát khỏi những nghĩa vụ hợp đồng ngay khi nhận được tuyên bố của người tiêu dùng.

4. Triệt tiêu hợp đồng trong trường hợp có sự thay đổi về hoàn cảnh

Các văn bản pháp điển hóa đưa ra những quy định liên quan đến số phận của hợp đồng trong trường hợp có sự thay đổi về hoàn cảnh. Về căn bản, những văn bản này bắt buộc các bên phải thương lượng và trong trường hợp thảo luận thất bại, các bên đề nghị thẩm phán về khả năng điều chỉnh hợp đồng với sự thay đổi tình hình hoặc tuyên bố triệt tiêu hợp đồng. Tuy nhiên, những khái niệm được lựa chọn trong các văn bản này lại không thống nhất.
theo quy định tại điều 6:111 PDEC, các bên phải cam kết thương lượng để làm cho hợp đồng thích hợp với hoàn cảnh bị thay đổi hoặc chấm dứt nó (“end“) trong trường hợp có sự thay đổi về hoàn cảnh theo những điều kiện được quy định trong văn bản. Nếu trong một thời hạn hợp lý, các bên không đạt được thỏa thuận, thẩm phán có thể xem xét khả năng “chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo điều kiện do thẩm phán ấn định” (Điều 6:111.3.b). Bình luận để giải thích của quy định này sử dụng từ “hủy” khi nói về quyền tư pháp: “chấm dứt hợp đồng” cũng được hiểu như sự biểu đạt một tuyên bố tư pháp về hủy hợp đồng. Tuyên bố này là không bắt buộc và được can thiệp như một phương thức cuối cùng, mặc dù không một thứ tự nào được nêu trong văn bản, bởi vì mục đích của quy định là để bảo vệ hợp đồng. Nếu thẩm phán tuyên bố hủy hợp đồng, phải tính đến toàn bộ tình hình và nhất là sự tiến triển của việc thực hiện hợp đồng để ấn định ngày hủy hợp đồng; ngày này sẽ cho phép xác định mức độ của việc hoàn trả. Việc hủy hợp đồng mà làm chấm dứt hiệu lực hồi tố của hợp đồng là không cần thiết. Thẩm phán có thể đưa ra trong quyết định của mình những điều kiện, nhất là về tiền bồi thường thiệt hại. Những ghi chú ở dưới văn bản này có nói đến sự không tồn tại hợp đồng, song lại không xác định rõ chế độ được áp dụng.
Các nguyên tắc UNIDROT cũng bao gồm những quy định về số phận của hợp đồng trong trường hợp có sự thay đổi về hoàn cảnh. Những quy định tại điều 6.2.3 cũng dự liệu, trong trường hợp thương lượng thất bại được mở ra sau một sự kiện hardship (khó khăn), thẩm phán có thể “chấm dứt hợp đồng” (“terminate – chấm dứt”) nếu như việc xử lý vi phạm này là hợp lý. Nó cũng ấn định trong trường hợp này, ngày và các điều kiện mà trong bình luận về quy định này gọi là “hủy hợp đồng”. Bình luận chỉ ra rằng, trong trường hợp đặc biệt, trong chừng mục mà chế tài được tuyên bố bởi thầm phán không phát sinh từ việc không thực hiện hợp đồng, chế độ của việc hủy hợp đồng này không hoàn toàn giống với chế độ hủy hợp đồng nói chung.
Điều 157.5 của Dự luật PAVIE cũng trao cho Thẩm phán khả năng tuyên bố việc đình chỉ hợp đồng do sự thay đổi về hoàn cảnh trong trường hợp các bên thương lượng thất bại về việc điều chỉnh hợp đồng hay chấm dứt hợp đồng. Điều luật này quy định rằng “Thẩm phán, sau khi đã đánh giá hoàn cảnh và tính đến những lợi ích và yêu cầu của các bên, có thể, tùy từng tình hình, nhờ một chuyên gia, sửa đổi hoặc hủy toàn bộ hoặc phần không được thực hiện của hợp đồng, và nếu xảy ra hoặc thây cần thiết, yêu cầu hoàn lại những gì đã nhận và buộc phải khắc phục thiệt hại“. Từ hủy hợp đồng được dịch theo nghĩa tiếng Anh là “dissolve“. Hiệu lực của việc hủy hợp đồng trong điều luật này là không rõ ràng: Hợp đồng bị hủy trong tương lai, nhưng tùy tình hình lại đặt ra khả năng hoàn lại những gì đã nhận.
Ví dụ trên đây cho phép nhận thấy rằng sự do dự của hệ thống thuật ngữ tồn tại không những trong các khái niệm được lựa chọn mà còn cả trong chế độ tương ứng với các khái niệm đó.

B. Sự không chắc chắn trong chế độ của các khái niệm bổ sung

Cùng một khái niệm được sử dụng torng những điều luật khác nhau nhưng chế độ gắn với nó lại không rõ ràng và nguyên nghĩa. Sự không chắc chắn này được thể hiện về mặt nội dung và cũng về thuật ngữ học: cùng một từ không phải luôn có cùng một nghĩa nếu nó phụ thuộc vào hoàn cảnh mà trong đó nó được sử dụng. Một cuộc thảo luận so sánh giữa PDEC và dự luật PAVIE đã minh họa một cách đặc biệt cho sự bất ổn này.
Trong PDEC, nếu việc không có hiệu lực được ghi nhận, thẩm phán hoặc trọng tài xác định chế tài theo những yếu tố khác nhau được liệt kê như: không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần (“partial ineffectiveness – sự không hiệu quả một phần“), bị hạn chế theo thời gian, dưới điều kiện (tiếng Anh dùng từ “effectsự hiệu lực“: “no effect“, “some effect“, “full effect“). Thẩm phán hoặc trọng tài cũng có thể quyêt định hợp đồng có toàn bộ hiệu lực mà không bị tác động bởi sự bất hợp pháp. Không có hiệu lực của hợp đồng thể hiện bởi việc hoàn lại những gì đã nhận (điều 15:104). Một bên trong hợp đồng bị tước hiệu lực cũng có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại: việc bồi thường này hướng tới việc đặt bên này trong tình huống tương tự như tình huống nếu hợp đồng đã không được ký kết, với điều kiện bên còn lại trong hợp đồng đã biết hoặc đã phải biết lý do của việc hợp đồng không có hiệu lực. Thẩm phán hoặc trọng tài sẽ có quyền tự do tương đối để đánh giá số tiền phải bồi thường thiệt hại (dựa trên những yêu tố được xem xét tại điều 15: 102 nêu trên).
Trong Dự luật PAVIE, việc hoàn trả trong các trường hợp nêu ở trên được đặt ra trong chế độ tương đối thống nhất theo quy định tại điều 160. Điều này cho phép rằng, ở một mức độ nào đó, đảm bảo sự thống nhất về hậu quả pháp lý cho các giả thuyết khác nhau nêu trên. Tuy nhiên, việc xử lý vi phạm trong mỗi trường hợp được dự kiến cũng có những đặc thù riêng. Không tồn tại hợp đồng kéo theo việc thiếu hiệu lực đối với toàn bộ hợp đồng (điều 138). Tuy nhiên, nghĩa vụ hoàn trả cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba có thể được ấn định. Không tồn tại hợp đồng được thiết lập mà không cần có một tuyên bố hay can thiệp của tư pháp bắt buộc nào và không bị ràng buộc bởi bất cứ thời hiệu nào (điều 138.2). Các bên liên quan có thể tự viện dẫn. Theo điều 139, tất cả những điều khoản bị coi như không tồn tại được xử lý theo chế độ không tồn tại hợp đồng, như được quy định tại điều 138.
Mất hiệu lực được thể hiện trong dự luật PAVIE mà không cần sự can thiệp tư pháp. Nó có thể được tuyên bố bởi các bên liên quan và được đưa ra một thời hạn là 3 năm. Không một giải thích nào được viện ra về chế độ liên quan đến không có hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, điều 160 liên quan đến sự hoàn trả bao gồm cả những hoàn trả do hậu quả của việc hợp đồng không có hiệu lực.
Chế độ hủy hợp đồng do gây thiệt hại được quy định tại điều 156 của dự luật PAVIE là khá hạn chế. Nó chỉ nêu ra một bên muốn dựa vào việc hủy hợp đồng do gây thiệt hại thì phải tiến hành như thế nào. Không một chỉ dẫn nào được đưa ra tại điều này đối với hiệu lực của hợp đồng trong một tuyên bố như vậy. Hợp đồng có thể bị hủy không cần phải có sự khẳng định và việc hủy hợp đồng có thời hạn là 1 năm tính từ ngày ký hợp đồng. Tuy nhiên, điều 160 nêu trên chỉ ra trong trường hợp hợp đồng bị hủy, các bên phải có nghĩa vụ hoàn trả. Trường hợp đình chỉ hợp đồng tại điều 159, các bên phải thoàn trả cho nhau và người tiêu dùng có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại để khắc phục thiệt hại đối với vật đã chuyển giao.

C. Tiến tới một chế độ thống nhất trong quyền thu hồi cam kết

Pháp luật cộng đồng châu Âu, trong việc hài hòa hóa pháp luật của các quốc gia thành viên về lĩnh vực hợp đồng, sử dụng những chế tài trong đó hệ thống thuật ngữ rất đa dạng. Trong luật tiêu dùng, lĩnh vực được ưa thích đặc biệt trong việc hài hòa hóa, sự đang dạng này là có thể dễ dàng phát hiện nhất. Thông báo của Ủy ban châu Âu năm 2003 về luật hợp đồng châu Âu đưa ra những khác biệt về sự không thống nhất đặc thù trong pháp luật Cộng đồng châu Âu trong lĩnh vực hợp đồng. “Điểm nhấn đã được đặt vào vấn đề về những đòi hỏi và hậu quả khác nhau do một số chỉ thị áp dụng cho cùng tình huống thương mại“. Các chỉ thị trong lĩnh vực nêu trên có mục đích là bảo vệ người tiêu dùng, ba loại quyền chính vì lợi ích của người tiêu dùng có thể ảnh hưởng đến số phận một hợp đồng là: Quyền thu hồi cam kết, quyền đình chỉ hợp đồng và quyền không bị ràng buộc bởi một số điều khoản. Hủy hợp đồng cũng xuất hiện như một chế tài được dùng đến cuối cùng.
Như Ủy ban châu Âu đã làm sáng tỏ, sự phân loại này thường không được thực hiện một cách ổn định theo quan điểm của hệ thống thuật ngữ trong luật phái sinh (1). Tuy nhiên, quyền thu hồi cam kết dường như là trung tâm của quyết định, được thêu dệt bởi những văn bản này và có thể, dưới sự thúc đẩy của án lệ, lặng lẽ đi vào khuôn mẫu của một chế độ đang trên đường thống nhất (2).

1. Sự lẫn lộn hệ thống thuật ngữ Cộng đồng châu Âu:  Khi thì quyền thu hồi cam kết giống với việc đình chỉ hợp đồng (a), khi thì hai khái niệm này lại khác nhau (b).

a) Quyền thu hồi cam kết, từ đồng nghĩa với đình chỉ hợp đồng
Một vài văn bản coi rằng thu hồi cam kết hoặc quyền suy nghĩ cụ thể hóa trong đình chỉ hợp đồng: Những khái niệm này là thay thế được cho nhau. Tuy nhiên, sự thu hồi hợp đồng này thường không được hiểu như một cách cách triệt tiêu hợp đồng trong tương lai, không có hiệu lực hồi tố. V1i dụ, tại lý do thứ 5 của Chỉ thị số 85/577/CEERE ngày 20/10/1985 liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng trong hợp đồng được thương lượng ngoài trụ sở thương mại nhắm tới quyền “đình chỉ hợp đồng” bởi người tiêu dùng, được đánh giá trong lý do tiếp theo là “quyền suy nghĩ”. Theo ngôn ngữ của điều 5 Chỉ thị này, người tiêu dùng có thể từ bỏ hiệu lực cam kết trong một thời hạn tối thiểu đặc biệt. Người tiêu dùng lúc đó được giải phóng tất cả cam kết và luật quốc gia sẽ ấn định chế độ hiệu lực pháp lý của sự từ bỏ này. Trong cùng một lĩnh vực, điều 6 Chỉ thị ngày 20/5/1997 nêu trên liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực hợp đồng từ xa dự liệu quyền thu hồi cam kết vì lợi ích người tiêu dùng. Quyền này có thể thực hiện trong một thời hạn ít nhất là 7 ngày, không có chế tài và không cần nêu lý do; nó cũng có thể được thực hiện nếu người cung cấp đã không chuyển một số thông tin bắt buộc trong thời hạn 3 tháng. Điều 6 chỉ ra rằng chỉ những chi phí thuộc bổn phận của người tiêu dùng trong trường hợp này là những chi phí trực tiếp cho việc chuyển lại hàng hóa; và người cung cấp phải hoàn lại cho người tiêu dùng các khoản tiền đã trả, không tính phí. Nếu quyền thu hồi cam kết được thực hiện, hợp đồng tín dụng mà người cung cấp hoặc người thứ ba đã thỏa thuận với người tiêu dùng dựa trên hợp đồng đã ký sẽ tự động vô hiệu mà không có chế tài.
Hai điều luật này không quy định một cách rõ ràng rằng quyền thu hồi cam kết hay quyền suy nghĩ nhằm chấm dứt hợp đồng chỉ làm hợp đồng bị triệt tiêu trong tương lai. Luật quốc gia sẽ quy định chế độ cho việc hủy hợp đồng này. Tuy nhiên, luật Cộng đồng châu Âu chỉ ra một vài yếu tố liên quan đến việc thực hện quyền này, cụ thể là thời hạn thực hiện và cách thức thông báo. Luật Cộng đồng châu âu cũng chỉ ra rằng, người tiêu dùng sẽ được hoàn trả lại số tiền đã trả, cái mà, về nguyên tắc, tương ứng với hiệu lực về tương lai của việc chấm dứt hợp đồng. Cuối cùng, nó cũng dự liệu rằng hợp đồng tín dụng dựa vào hợp đồng thương mại được ký kết với người tiêu dùng tự động bị chấm dứt.
Đặc trưng của chấm dứt hợp đồng theo luật Cộng đồng châu Âu xuất hiện trong Chỉ thị số 90/134/CEE ngày 13/6/1990 liên quan đến du lịch, lễ hội và các tour trọn gói. Điều 4.5 cho phép người tổ chức, trước khi bắt đầu, sửa đổi những yếu tố đặc biệt của hợp đồng, nhất là về giá cả. Trong trường hợp này, người này phải báo cho người tiêu dùng biết trước trong thời hạn hợp lý nhất định. Người tiêu dùng có thể chấm dứt hợp đồng mà không bị phạt hoặc chấp nhận những thay đồi hợp đồng như đề nghị. Trong trường hợp chấm dứt, người tiêu dùng có quyền nhận lại toàn bộ số tiền đã trả căn cứ theo hợp đồng, hoặc đề nghị một tour trọn gói mới. Chấm dứt hợp đồng ở đây có hiệu lực hồi tố. Tuy nhiên, nếu kiểm tra những bản dịch song ngữ của điều luật này, sẽ không một từ nào đưa ra nghĩa này. theo tiếng Pháp, từ chấm dứt hay đình chỉ hợp đồng về nguyên tắc áp dụng cho việc triệt tiêu hợp đồng không có hiệu lực hồi tố. Từ “recedere – rút” theo tiếng Ý viện dẫn quyền rút lui, cũng giống như từ “withdraw – rút” trong tiếng Anh nhắm đến quyền thu hồi cam kết của một trong hai bên ký kết hợp đồng trước khi chấp nhận thỏa thuận. Từ “Zurücktreten – rút, từ bỏ” trong tiếng Đức dường như gần nhất với đình chỉ hợp đồng theo nghĩa của luật Cộng đồng châu Âu.

b) Quyền thu hồi cam kết và đình chỉ hợp đồng, những thuật ngữ khác biệt
Những văn bản khác xem xét chế độ thu hồi cam kết và đình chỉ hợp đồng dường như có sự khác biệt rõ rệt. Ví dụ, Chỉ thị số 94/47/CE ngày 26/10/1994 về bảo vệ người mua bởi một số phương diện của hợp đồng liên quan việc thủ đắc quyền sử dụng bán thời gian bất động sản, phân biệt quyền đình chỉ hợp đồng và quyền thu hồi cam kết. Thực tế, điều 5 của Chỉ thị này dự liệu rằng người mua có quyền thu hồi cam kết trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ký hợp đồng hoặc hợp đồng sơ bộ bắt buộc, không cần chỉ ra lý do. Mặt khác, người mua có thể đình chỉ hợp đồng nếu một số điều kiện bắt buộc không được thực hiện trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày ký hợp đồng; nếu những thông tin được cung cấp trong thời hạn này, người mua bảo lưu quyền thu hồi cam kết như đã trình bày ở trên. Nếu quyền đình chỉ hợp đồng không được thực hiện và nếu hết thời hạn 3 tháng, hợp đồng không chứa đựng thông tin bắt buộc, người mua bảo lưu quyền thu hồi cam kết. Trong trường hợp thực hiện quyền thu hồi cam kết, người mua chỉ phải trả những chi phí gây ra bởi việc thu hồi cam kết này. Đình chỉ hợp đồng được thực hiện không kèm theo chế tài và không phải hoàn trả. Ngược lại, điều 7 dự liệu rằng hợp đồng tín dụng được thỏa thuận bởi người bán hoặc bởi người thứ ba dựa trên hợp đồng đã ký giữa người bán và người thứ ba để thực hiện việc thủ đắc và được tự động hủy mà không bị phạt trong trường hợp thực hện quyền thu hồi cam kết và đình chỉ hợp đồng.
Chỉ thị số 2002/65/CE ngày 23/09/2002 về việc thương mại hóa từ xa những dịch vụ tài chính đối với người tiêu dùng cũng phân biệt giữa quyền thu hồi cam kết và những chế tài khác mà các quốc gia thành viên có quyền đưa ra. Điều 6 của Chỉ thị này quy định vì lợi ích của người tiêu dùng một quyền thu hồi cam kết kể từ ngày ký hợp đồng hoặc từ ngày tiếp nhận những thông tin và điều kiện hợp đồng nếu ngày đó sau ngày ký hợp đồng. Quyền thu hồi cam kết bị loại trừ đối với một số dịch vụ tài chính. Việc thu hồi cam kết phải được người tiêu dùng thông báo theo cách thức được quy định trong chỉ thị. Điều 7 của Chỉ thị chỉ ra rằng, người tiêu dùng phải trả tiền cho những dịch vụ thực tế đã được thực hiện trước khi thu hồi cam kết nếu người đó đã được thông báo về số tiền; người tiêu dùng phải hoàn lại cho người cung cấp tất cả số tiền và tất cả tài sản đã nhận, đối với người cung cấp, phải hoàn trả cho người tiêu dùng tất cả số tiền đã nhận (có trừ đi tiền người tiêu dùng đã trả cho những dịch vụ thực tế đã thực hiện).

2. Nỗ lực của thực tiễn xét xử trong việc hài hòa quyền thu hồi cam kết

Tòa án Công lý châu Âu đã đóng góp nhiều án lệ để làm nổi bật chế độ thống nhất về quyền thu hồi cam kết. Quả nhiên, như đã quan sát, quyền thu hồi cam kết tuân thủ chế độ khác nhau tùy theo chỉ thị: Khả năng thu hồi cam kết hay không không cần chỉ ra lý do, cách tính thời hạn hay thời điểm bắt đầu cũng là những yếu tố được định nghĩa theo cách riêng trong mỗi chỉ thị. Vả lại, việc chuyển hóa vào quốc gia những chỉ thị cũng thể hiện rõ sự đa dạng: việc mỗi một nước thành viên chuyển hóa văn bản Cộng đồng châu Âu dung hòa chế độ quyền thu hồi cam kết với các quy định của quốc gia, thường kéo theo một chế độ lai tạp. Ví dụ, trong luật của Đức, chế độ “Widerruf” (thu hồi cam kết, hủy cam kết) được dựa trên chế độ “Rücktritt” (hủy bỏ hợp đồng) (Xem điều 357 đoạn 1 BGB, điều này dẫn chiếu đến điều 346 BGB). Nó giải quyết việc tránh hậu quả của một hành vi pháp lý bằng một tuyên bố đơn phương (“Gestaltungserlarung“). Theo quy định tại điều 355 đoạn 1 BGB, người tiêu dùng “không còn bị cam kết bằng việc tuyên bố ý chí của mình” ngay khi tiến hành “widerruft (thu hồi) tuyên bố đó. Một số tác giả nói đến “Schwebende Wirksamkeit” (đình chỉ hiệu lực) song song với “Schwebende Unwirksamkeit” (đang chờ không có hiệu lực). Điều 355 và tiếp theo trong BGB thiết lập một chế độ chung mà tập hợp lại tất cả những quyền “thu hồi cam kết”, “hủy” hay “từ bỏ” ấn định trong những Chỉ thị khác nhau của Cộng đồng châu Âu về pháp luật tiêu dùng và mở rộng trong những lĩnh vực khác (bán hàng tại nhà, hợp đồng và dịch vụ tài chính từ xa, đa sở hữu, tín dụng tiêu dùng). Thời hạn suy nghĩ là 14 ngày kể từ ngày chuyển giao thông tin về sự tồn tại cảu quyền thu hồi cam kết (và đôi khi, từ ngày chuyển giao những thông tin khác hay từ ngày chuyển giao tài sản đã mua). Thời hạn này có thể được tăng lên (đôi khi cùng với cả ad infinitum – đến vô tận) trong trường hợp nhà chuyên nghiệp không thực hện nghĩa vụ của mình. Hậu quả của “Widerruf” khá là gần với “Rucktritt“: Nó chủ yếu là hoàn lại những công viêc đã nhận và những lợi tức thực tế nhận được từ những công viêc đó. Nhưng trách nhiệm của người tiêu dùng về sự hư hại của các tài sản đã mua được giảm bớt so với chế độ chung của “Rucktritt” (Điều 357 khoản 3 BGB).
Trong phần lớn các chỉ thị, những điều kiện cụ thể và trường hợp thực hiện quyền thu hồi cam kết được nhường cho pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, trong hai vụ án quan trọng của Tòa án Công lý châu Âu đã thực hiện cho thấy việc điều hòa trên phạm vi cộng đồng Châu Âu dựa trên sự cần thiết bảo vệ người tiêu dùng có thể làm khai thông một chế độ thực sự về quyền thu hồi cam kết. Tòa án Công lý châu Âu đã đưa ra những tiền đề của chế độ cộng đồng trong quyết  định ngày 22/4/1999 về vụ việc Travel Vac v. Sanchis (vụ việc Travel Vac). Chỉ thị năm 1985 về hợp đồng được ký kết ngoài trụ sở thương mại nêu ở trên có liên quan đến vụ việc này. Trong những vấn đề được đưa ra, có yêu cầu tòa án Công lý châu Âu chỉ rõ, khi văn bản luật phái sinh về những điểm này không nêu rõ, thì liệu chỉ thị có đòi hỏi những điều kiện về hình thức để thực hiện quyền thu hồi cam kết hay không và liệu quyền thu hồi cam kết có thể được thực hiện mà không cần có thông báo về bằng chứng của thủ đoạn lừa dối về phía nhà chuyên nghiệp. Tòa án Công lý châu Âu đã khích lệ tinh thần vì lợi ích của người tiêu dùng, khẳng định một mặt không một điều kiện cá biệt nào về hình thức ngay khi người tiêu dùng đã biểu đạt ý chí chắc chắn của mình với người chuyên nghiệp, trong thời hạn đã được quy định và theo một cách rõ ràng và mặt khác, quyền thu hồi cam kết là quyền tùy ý quyết định và phải thực hiện không có hình phạt.
Việc lấp đầy lỗ hổng và không chắc chắn này trong các văn bản cộng đồng được tiếp tục bởi vụ án ngày 13/12/2001, Get H.Heininger v. Bayerische Hypo und Verensbank AG (Vụ án Heininger). Trung tậm của cuộc tranh luận liên quan đến cùng một Chỉ thị với vụ án Travel Vac. Tòa án Công lý châu Âu đã nghiên cứu để biết liệu pháp luật quốc gia có thể, trong khuôn khổ việc chuyển hóa văn bản này, gắn quyền thu hồi cam kết với một thời hạn mà hết thời hạn này thì sẽ mất quyền thu hồi. Điều 5.1 của Chỉ thị 1985 dư liệu rằng người tiêu dùng có thể từ bỏ hiệu lực của cam kết trong thời hạn 7 ngày kể từ thời điểm nhận được thông tin rằng người đó phải cung cấp cho người chuyên nghiệp biết về quyền hủy hợp đồng. Tòa án Công lý châu Âu coi rằng pháp luật quốc gia không thể ấn định thời hạn 1 năm kể từ ngày ký kết hợp đồng khi mà người tiêu dùng chưa nhận được thông tin quy định trong chỉ thị. Phải chỉ ra rằng một số chỉ thị bao gồm thời hạn hưởng quyền thu hồi cam kết nhưng thời hạn này chư được định nghĩa một cách thống nhất trong những văn bản khác nhau. Khuynh hướng của vụ án Heininger hạn chế những trường hợp trong đó văn bản của Cộng đồng châu Âu không bao gồm việc xử lý vi phạm đối với việc không tôn trọng thông tin của người tiêu dùng. Trong những trường hợp như thế này, tòa án Công lý châu Âu cho rằng không thể ấn định thời hạn hưởng quyền.
Giải pháp này không phải là giải pháp thống nhất: một số tác giả cho rằng việc này làm dấy lên một “sự nghi ngờ quá mức về số phận của hợp đồng”, trong khi đó một số khác lại ủng hộ việc Tòa án Công lý châu Âu phải có ưu tiên “những lập luận bảo vệ người tiêu dùng và viêc vận hành có hiệu quả thì trường thống nhất”. Án lệ của Tòa án Công lý châu Âu về chế độ quyền thu hồi cam kết cũng lan sang cả vấn đề về bản chất của quyền này. tòa án Công lý châu Âu không trực tiếp có tuyên bố về việc đánh giá tế nhị này. Tuy nhiên, nó chỉ ra rằng, Chỉ thị năm 1985 bắt buộc người tiêu dùng đã thực hiện quyền thu hồi cam kết phải hoàn lại tiền đã vay và trả lãi suất thực tế trên thị trường: những án lệ này dường như coi rằng hợp đồng đã được thực hiện, ngay cả khi Tòa án Công lý châu Âu nhắc lại rằng hậu quả của việc thu hồi hợp đồng thuộc thẩm quyền của các quốc gia thành viên. Ngay chính các Chỉ thị cũng do dự đối với bản chất của quyền thu hồi cam kết: Chỉ thị năm 1997 về hợp đồng được ký kết từ xa đã làm rõ nét hơn sự lưỡng lự này, khi sử dụng trong các bản ngôn ngữ khác nhau, lúc thì những từ ngữ liên quan đến hình thành hợp đồng (“right of withdrawal” hay “widderufsrecht”), lúc thì sử dụng thuật ngữ đề nói đến việc thực hiện một quyền đã được thực hiện sau khi ký hợp đồng (“quyền thu hồi cam kết”) hay “diritto di recesso”). Phần lớn các học thuyết cho rằng quyền thu hồi cam kết như đã ấn định trong những chỉ thị liên quan đến việc thực hiện hợp đồng vì nó chỉ được tiến hành và những hậu quả của nó xảy ra sau khi ký hợp đồng. Không nghi ngờ gì nữa, sự lưỡng lự về thuật ngữ lan sang cả nội dung và vẫn chưa kết thúc mặc cho những nỗ lực của Tòa án Công lý châu Âu. Đề xuất Chỉ thị ngày 7/10/2005 về hợp đồng tín dụng cho người tiêu dùng là minh chứng cho những khó khăn này. Điều 13 của Chỉ thị quy định về quyền thu hồi cam kết, khái niệm không xuất hiện một cách nguyên nghĩa trong những ngôn ngữ khác nhau: Ví dụ, “withdrawal – rút lui” trong tiếng Anh, “widerrufsrecht” trong tiếng Đức và “diritto di recesso” trong tiếng Ý, những khái niệm mà như đã được chỉ ra ở trên, không cùng nói đến một phạm trù. Điều 13.1 quy định rằng, người tiêu dùng có một thời hạn 14 ngày để suy nghĩ lại về cam kết của mình, thời hạn này được tính từ ngày ký hợp đồng tín dụng hoặc từ ngày người tiêu dùng nhận được hợp đồng tín dụng. Điều 13.2 cho phép người tiêu dùng, trước khi thực hiện quyền thu hồi cam kết, có thể thông báo đến người vay “ý định từ bỏ quyền thu hồi cam kết” trong thời hạn 7 ngày sau thời hạn thu hồi cam kết; khái niệm này không được dịch sang bất kể một ngôn ngữ nào khác. bản dịch cuối cùng của dự án chỉ đưa ra chế độ về hoàn trả tài sản./.

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Nam Lua

Nam Lua

Bình luận

avatar