XIN VÀ CHO GIỮA PHÁP ĐÌNH.

– Điệp khúc 1:
Thưa hội đồng xét xử (HĐXX), xin HĐXX cho tôi được thẩm vấn bị cáo Nguyễn Văn A; xin HĐXX cho tôi được thẩm vấn người bị hại Nguyễn Văn B” … Những điệp khúc như thế hoặc tương tự như thế, đã vang lên từ miệng của các luật sư tham gia bào chữa trong rất nhiều phiên tòa. Cứ thế, hết người này đến người khác, học tập lẫn nha, để lặp đi lặp lại điệp khúc “êm dịu” ấy trong những phiên tòa, mà không để ý rằng, những điệp khúc ấy rất xa lạ với Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự (BLTTHS) của chúng ta.
Trước hết, nói về chữ “xin” êm ái, lễ phép trong các câu cửa miệng của các luật sư tham gia bào chữa. Trong 286 điều của BLTTHS thì chỉ có một và chỉ một điều luật qui định “được … xin”, đó là điều 288, qui định người bị kết án tử hình có quyền “Trong thời hạn bảy ngà, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên chủ tịch nước”. Như vậy, chỉ có người bị kết án tử hình mới được quyền xin, còn trong các trường hợp khác và với tư cách khác thì không ai có quyền xin. Thậm chí, khi đang là bị can, bị cáo, thì theo điều 10 BLTTHS, bị can, bị cáo vẫn được coi là người không có tội nên họ ở vào hoàn cảnh không phải xin. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, họ trở thành người bị kết án và phải chấp hành hình phạt mà không được quyền xin nếu họ không rơi vào trường hợp bị kết án tử hình. Tuy nhiên, trong tư cách và hoàn cảnh của bị can, bị cáo và nhất là họ ít hiểu biết về pháp luật, về dân chủ thì họ “xin bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào” là có thể thông cảm được. Còn anh là luật sư, tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa thì tại sao anh phải xin? Ai có quyền cho? Nếu không cho thì anh làm gì?
– Vẫn điệp khúc 1:
“Xin HĐXX cho tôi được thẩm vấn … Nguyễn Văn A”. Không biết có HĐXX nào phải hội ý sau lời cầu xin thẩm vấn của người bào chữa để quyết định xem có cho người bào chữa thẩm vấn … Nguyễn Văn A hay không, nhưng theo điệp khúc 1 thì họ “xin” HĐXX chứ không “xin” chủ tọa phiên tòa. Theo điều 171 BLTTHS, “mọi người ở trong phòng xử … tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa” hoặc theo điều 181, “những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm những tình tiết cần làm sáng tỏ” và một số điều luật khác qui định rất rõ là chủ tọa phiên tòa có quyền điều khiển phiên tòa. Nhưng than ôi! Nhiều người cứ “đè” HĐXX mà xin, theo cái kiểu không biết ai có thẩm quyền nên xin tùm lum cho chắc!. Những người không biết luật nên phải “vái lạy tứ phương” thì có thể thông cảm được, nhưng luật sư chẳng lẽ không biết xin ai và xin ở đâu cho đúng thẩm quyền?
“Ngôn ngữ là hình thức tồn tại và hình thức thể hiện của tư duy, đồng thời ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức”. Do vậy, việc sử dụng đúng ngôn ngữ là hết sức cần thiết để có một tư duy và ý thức đúng. Nhiều người dùng tiếng “xin” hoặc chữ xin” lâu ngày thành thói quen “xin xỏ”, và trong ý thức của họ là ý thức của người đi xin. Khi xin mà không ai cho thì họ “cầu khẩn van lơn” hoặc im lặng mà không nhận thức rằng, pháp luật đã qui định cho họ có quyền yêu cầu, quyền đề nghị, quyền khiếu nại, quyền tố cáo và quyền khởi kiện … Nếu các quyền này không được đáp ứng thì pháp luật cũng đã qui định cho họ, được tiến hành các bước tiếp theo, để sao cho, các yêu cầu và đề nghị đúng pháp luật thì phải được thực hiện.
Trong phiên tòa xét xử vụ án Tân Trường Sanh, có ba lời cầu xin của luật sư bào chữa trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Nhưng chỉ có hai lời cầu xin được đáp ứng. Riêng lời cầu xin của Luật sư Lê Trọng Hùng trong việc đưa ra chứng cứ bằng hình thức treo sơ đồ minh họa quá trình nhập hàng lậu thì bị chủ tọa phiên tòa bác bỏ với lý do “HĐXX đã có các sơ đồ này rồi” và LS Lê Trọng Hùng im lặng, mặc nhiên chấp nhận như đó là yêu cầu không đúng pháp luật. Theo điều 20 và điều 36 BLTTHS, LS Lê Trọng Hùng – với tư cách là người bào chữa – có quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu, tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, nghĩa là, được quyền đưa ra chứng cứ theo cách của mình vào thời điểm thích hợp. Thế nhưng, Luật sư lại “xin”. Cái xin tai hại này đã bị chủ tọa Bùi Hoàng Danh bác bỏ với lý do trái pháp luật nhưng LS Hùng lại im lặng. Theo nguyên tắc xét xử công khai được qui định tại điều 19 BLTTHS, người bào chữa không những có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ, trình bày cho HĐXX nghe, biết, mà còn có nghĩa vụ trình bày cho tất cả những người tham gia, tham dự phiên tòa được nghe, được biết. Do vậy, lý do “HĐXX có sơ đồ này rồi” là lý do trái pháp luật, vi phạm điều 19 BLTTHS.
Hơn nữa, theo điều 8, điều 24 BLTTHS, các tổ chức xã hội và công dân có quyền tham gia tố tụng hình sự, có quyền khiếu nại và tố cáo đối với các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, nên phải bảo đảm nguyên tắc xét xử công khai để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” đối với hoạt động xét xử của tòa án. Không rõ sơ đồ mà LS Lê Trọng Hùng “xin” đưa ra có ý nghĩa như thế nào trong việc giải quyết vụ án hoặc phát hiện tội phạm mới, nhưng nhiều người tham gia, tham dự muốn biết mà không được biết thì rõ là phiên tòa chưa tuân thủ nguyên tắc công khai đầy đủ. Sau phiên tòa, tôi có thắc mắc về sự im lặng khi bị bác bỏ cái “xin” thì LS Lê Trọng Hùng cho rằng, sự im lặng trong trường hợp này, là nghệ thuật của người bào chữa xuất phát từ quyền lợi của bị cáo. Nhưng khi tôi hỏi về tiếng “xin” ở đâu ra thì LS Hùng phải chịu “ngọng” và “cà lăm”.
BLTTHS của nước ta là một bộ luật rất tiến bộ. Bộ luật thể hiện sự công bằng, dân chủ, khoa học và nhân văn rất cao. Nhưng để cho những điều luật thấm đượm mồ hôi và xương máu ấy đi vào cuộc sống không phải là chuyện dễ, khi mà những người tiến hành tố tụng và những “ông thầy về luật” không tiên phong trong tư duy – ý thức, trong ngôn ngữ và trong cả cuộc hành trình vì công lý. Chữ “xin”, tiếng “xin” trong đời sống hàng ngày thì có thể chấp nhận được; nhưng chữ “xin”, tiếng “xin” dùng trong pháp luật thì chúng biến thành chữ “xin”, tiếng “xin” gặm nhấm nền dân chủ./.
(Trích từ “Trên Nẻo Đường Luật Sư”).
(Bài đăng trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật số 17-99 ngày 2-5-1999)
Bình luận