Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

8. Sự vô hiệu của hội buôn (1266-1283)

SỰ VÔ HIỆU CỦA HỘI BUÔN

1266._ Trên đây, ta đã có một vài dịp đề cập đến sự vô hiệu của hội buôn, nay cần cứu xét toàn bộ vấn đề này. Ta biết rằng, trên nguyên tắc, theo luật nghĩa vụ, một khế ước chỉ bị coi là vô hiêu khi nào thiếu một trong các điều kiện pháp định để cho khế ước được thành lập hợp luật. Nếu khế ước không thành lập hợp luật, sẽ không phát sinh được thành quả theo như mục đích của hai bên dự định khi lập ước. Một khi khế ước đã bị coi là vô hiệu thì sự vô hiệu tiêu diệt hoàn toàn khế ước. Không những trong hiện tại và về tương lại, khế ước không phát sinh hậu quả gì, mà cả về quá khứ, những hậu quả đã phát sinh rồi cũng không còn tồn tại: khế ước bị xóa bỏ không còn để lại vết tích gì hết. Sự vô hiệu của công ty thương mại không cùng khuôn khổ ấy. So với những khế ước khác, khế ước lập hội, một đằng có những nguyên nhân vô hiệu nhiều hơn, chẳng hạn có những thể thức không liên quan gì đến việc thành lập khế ước, như sự công bố, cũng làm cho việc lập hội vô hiệu nếu không được tuân thủ đầy đủ. Đằng khác, sự vô hiệu của khế ước lập hội không có những hậu quả rộng rãi như khế ước khác; có những hành vi của hội được bảo lưu mặc dù khế ước lập hội vô hiệu. L1y do là vì hội là một pháp nhân đã có sinh sống trong một thời gian, mà sự hoạt động của hội lại liên quan đến nhiều người đệ tam khác; những người này nhiều khi không biết được tình trạng bất hợp pháp của hội; họ là những người đã ngay tình giao dịch với hội, bởi thế muốn cho được công bằng, luật phải bảo lưu những thành quả của các giao dịch ấy. Dưới đây, ta sẽ xét riêng từng trường hợp vô hiệu và hậu quả của sự vô hiệu.
1267._ Vộ hiệu vì mục tiêu: Mục tiêu bất hợp pháp thì hội cũng bất hợp pháp. Lập hội để buôn lậu, để mở nhà chứa là lập hội với một mục tiêu bất hợp pháp. Sự bất hợp pháp rong các thí dụ vừa kể có thể nhận định được một cách dễ dàng vì ai cũng thấy rằng các việc ấy đều là những việc  không lương thiện. Nhưng cũng có khi mục tiêu của hội không hiển nhiên bất lương mà hội cũng vô hiệu, chỉ vì mục tiêu đặt ra không được luật cho phép khai thác dưới hình thức hội thương mại, thí dụ thương hội được thành lập giữa một số dược sĩ và tư nhân (1236).
1268._ Sự vô hiệu vì mục tiêu là một sự vô hiệu tuyệt đối, không bao yểm được; tất cả những người quan thiết vì có quyền lợi, giao dịch với hội, nghĩa là các người đệ tam, cũng như các hội viên, đều có quyền viện dẫn sự vô hiệu; _ Sự vô hiệu có thể đối kháng được với tất cả mọi người: Trên nguyên tắc, sự vô hiệu có thể do chính các hội viên viện dẫn đối kháng với người đệ tam; tuy nhiên, chấp nhận sự đối kháng do chính các hội viên không khỏi bất công vì như vậy là chấp nhận cho người phạm pháp có thể đem chính sự phạm pháp của mình ra để tự vệ chống lại người đệ tam, bởi thế, án lệ hạn chế sự đối kháng trong phạm vi những hội mà mục tiêu trái với trật tự công cộng hay thuần phong mỹ tục mà thôi; còn trong những trường hợp vì lý do khác (thí dụ trường hợp hội thương mại được thành lập giữa dược sĩ và tư nhân), thì các hội viên không thể viện dẫn sự vô hiệu để đối kháng với người đệ tam.
1269._ Hội bất hợp pháp phải bị giải tán, không thể được tồn tại. Khế ước phải bị hủy bỏ, pháp nhân cũng không còn. Giữa các hội viên, hội sẽ được thanh toán như thể một tình trạng cộng đồng. Theo học lý, hội sẽ không thanh toán theo các định khoản của khế ước vì khế ước vô hiệu; sự thanh toán sẽ được làm theo tỷ lệ phần hùn của hội viên, và mỗi người sẽ lấy lại phần hùn của họ. Đối với người đệ tam, các hành vi của hội sẽ bị tiêu hủy với hời tiền hiệu lực, cả về quá khứ; chỉ được tồn tại, với điều kiện là người đệ tam đã ngay tình giao dịch với hội, không biết là hội bất hợp pháp. Những sự cam kết nào có một đối tượng hợp pháp và các tác vụ thi hành những sự cam kết ấy, thí dụ mua vật dụng trang trí cho hội chiếu theo sự cam kết giữa hội và người bán.
1270._ Hội vô hiệu thành lập giữa vợ chồng. _ Hội thương mại thành lập giữa vợ chồng (1237) cũng vô hiệu một cách tuyệt đối, và, trên nguyên tắc, không xuất phát được hậu quả gì; theo lẽ, sự vô hiệu có thể do vợ chồng viện dẫn đối kháng với người đệ tam. Tuy nhiên, vì trên thực tế, hội đã có những hoạt động, cho nên án lệ, ít ra là trong trường hợp hội có một mục tiêu hợp pháp, đã công nhận hiệu lực của những hành vi do hội đã làm rồi; những hành vi này không bị tiêu hủy, và vẫn còn hiệu lực đối với người đệ tam. Sự vô hiệu chỉ nhằm vào những hành vi thực hiện sau khi hội bị tuyên bố vô hiệu. Giữa các hội viên, hội sẽ phải thanh toán vì hội không có hiệu lực để được tồn tại. Án lệ không được đồng nhất về sự thanh toán: có khi cho thanh toán theo như khế ước lập hội đã định, có khi truyền thanh toán theo tỷ lệ phần hùn của các hội viên. Kết lại, sự vô hiệu trên nguyên tắc, tuy là tuyệt đối, nhưng với những tiết giảm trên, gần như vô hiệu tương đối.
1271._ Vô hiệu vì bất bình đẳng: Theo điều 1430 DLT, điều khoản của khế ước lập hội trao cho một hay vài hội viên được quyền hưởng trọn tiền lời là vô hiệu. Ngược lại, điều khoản buộc riêng một hay vài hội viên phải gánh chịu toàn thể số tiền lỗ cũng bị vô hiệu (1276 DLVN 1972). Nguyên tắc của việc lập hội là sự bất bình đẳng giữa các hội viên: lỗ lãi giữa các hội viên phải được phân chia giữa các hội viên theo tỷ lệ phần hùn của họ, trừ khi hội quy định khác (điều 1469 DLT). Về điểm này điều 1430 DLT đầy đủ hơn điều 1855 DLP. Dựa vào án lệ, DLT định rõ rằng chẳng những điều khoản vô hiệu, mà toàn bộ khế ước lập hội cũng vô hiệu, nếu điều khoản đó được ghi vào chính khế ước. Theo đoạn chót điều 1430, nếu điều khoản được các hội viên chấp thuận riêng rẽ về sau, thì chỉ riêng điều khoản ấy vô hiệu, còn khế ước vẫn tồn tại.
1272._ Trong trường hợp điều khoản được ghi vào chính khế ước làm cho toàn thể khế ước vô hiệu theo điều 1430 DLT, thì sự vô hiệu này có tính cách tuyệt đối hay tương đối? Án lệ Việt Nam chưa có dịp giải quyết vấn đề này. Theo lẽ, ta phải phân biệt: Nếu điều khoản nhằm truất quyền chia lời của một hội viên, thì chỉ hội viên này có quyền nại sự vô hiệu. Điều khoản không có ảnh hưởng gì đến người đệ tam. Nếu điều khoản nhằm miễn hẳn trách nhiệm cho một hội viên, có lẽ ta lại phải phân biệt nữa: Các hội viên sẽ không nại được sự vô hiệu của khế ước để đối kháng với người đệ tam, vì sự vô hiệu là do lỗi riêng của họ gây ra làm cho khế ước bất hợp pháp: Nói một cách khác, mọi sự cam kết của hội đối với người đệ tam vẫn phải được thi hành, và chính người đệ tam cũng không được nại ra sự vô hiệu của khế ước để khỏi phải thi hành những điều cam kết của chính mình. Mặt khác, trong sự thi hành này, chính hội viên liên hệ cũng vẫn phải chịu trách nhiệm đối với người đệ tam, không viện dẫn đối kháng được với người này về điều khoản miễn trách nhiệm trong khế ước. Nếu điều khoản chỉ hạn chế trách nhiệm của hội viên tới mức phần hùn (chứ không miễn hẳn trách nhiệm) thì, theo án lệ Pháp, sẽ đối kháng được với người đệ tam, miễn là có công bố (Civ 13-7-1904. DP 1905.1.25).
1273. _ Vô hiệu vì sự ưng thuận bị hà tì và vì vô năng cách: Ta đã biết rằng những nguyên nhân làm cho sự ưng thuận bị hà tì là sự bạo hành, sự lừa lọc và lầm lẫn (1229 và kế tiếp). Ngoài ra, dẫu hội viên đã ưng thuận nhập hội một cách tự do và sáng suốt, nghĩa là sự ưng thuận không bị hà tì, hội viên còn phải có đủ năng lực pháp lý (1233 và kế tiếp). Nếu sự ưng thuận bị hà tì, nếu hội viên không có pháp năng, sự ưng thuận sẽ vô hiệu. Nhưng sự vô hiệu này không nhất thiết làm cho hội cũng vô hiệu. Ta phải phân biệt trường hợp hội đối vốn và hội đối nhân.
1274._ Về hội đối vốn, người ký mua cổ phần hay góp phần hùn sẽ xin tiêu hủy cam kết của mình vì sự ưng thuận bị hà tì, hay vì vô năng lực, và nhân đó, sẽ lấy lại phần hùn của mình. Nhưng hội vẫn tồn tại giữa các hội viên khác, chỉ trừ trường hợp ít có là hội không còn bản vốn gì đáng kể ngoài phần hùn của hội viên đã rút ra.
1275._ Về công ty đối nhân: Cá nhân của hội viên là yếu tố quan trọng, cho nên sự ưng thuận bị hà tì hay thiếu năng lực của hội viên sẽ làm cho hội bị vô hiệu. Sự vô hiệu này chỉ có tính cách tương đối; hội chỉ vô hiệu về tương lai; còn về quá khứ, hội được coi như một hội thực tế (1231). Sự vô hiệu chỉ có thể được viện dẫn do người đại diện pháp định của hội viên thiếu năng cách, hay do chính người này nếu sự ưng thuận bị hà tì, hay do các thừa kế, các chủ nợ riêng của hội viên. Sự vô hiệu không đối kháng được với người đệ tam. Sau khi sự cam kết của hội viên bị tiêu hủy vì thiếu năng cách, hay vì sự ưng thuận bị hà tì, hội viên sẽ lấy lại phần hùn của mình. Nếu do sự rút phần này, hội không còn phương tiện hoạt động nữa, hội sẽ phải giải tán; sản nghiệp được thanh toán giữa các hội viên. thiết tưởng việc thanh toán trong trường hợp này, chỉ vì liên quan đến những hội viên mà sự ưng thuận hữu hiệu, cho nên có thể được thực hiện theo như khế ước đã dự định.
1276._ Vô hiệu vì sự thành lập bất hợp lệ và vì thiếu công bố:  Trên bình diện lý thuyết, một hội được thành lập bất hợp lệ thì không được coi là một hội vì còn thiếu một yếu tố cho sự thành lập. Do đó, sự thành lập bất hợp lệ phải được phân biệt với sự khiếm khuyết công bố, vì sự công bố chỉ là thể thức cần thiết trong giả thiết hội được công bố đã thành lập hợp lệ. Trong thực tế, luật không phân biệt, và án lệ cũng áp dụng cho cả hai loại vô hiệu một chế độ chung, như liền đây ta sẽ thấy.
1277._ Theo điều 58,59 luật ngày 24-7-1876 sửa đổi do sắc luật ngày 30-10-1935 đã dẫn, hội sẽ vô hiệu nếu các thể thức ký nạp và công bố (1257 và kế tiếp) không được tuân thủ. Theo điều 7 hội hợp tự cổ phần sẽ vô hiệu nếu các thể thức thành lập không được tuân thủ đúng luật; Theo điều 9 luật ngày 7-3-1925 về hội trách nhiệm hữu hạn, hội sẽ vô hiệu nếu các thể thức thành lập không được tuân thủ đúng luật. Trong các trường hợp vừa kể, luật đều định rõ ràng sự vô hiệu không đối kháng được với người đệ tam (157, 214, 255 DLVN 1972 cũng quy định tương tự). Vậy ta phân biệt trường hợp các hội viên và trường hợp các người đệ tam.
1278._ Trường hợp các hội viên: Khi hội không hợp lệ, các hội viên đều ở trong tình trạng bất hợp lệ, vậy dĩ nhiên họ có lợi ích và có quyền nại sự vô hiệu để chấm dứt tình trạng ấy. Để  khỏi phải góp phần hùn, sự vô hiệu có thể được viện dẫn do một hội viên này chống lại hội viên kia, hoặc chống lại thanh toán viên được chỉ định tương thuận. Tố quyền vô hiệu hóa, nếu được chuẩn chấp, có hiệu lực làm cho hội bị giải tán, nhưng hiệu lực này chỉ khởi đầu từ ngày tuyên án giải tán, tức là sự giải tán không có hồi tiền hiệu lực. Theo án lệ, bản án có hiệu lực đối kháng với tất cả với mọi người; không ai có quyền đệ tam kháng tố, kể luôn cả hội viên và cổ đông viên không được đòi ra dự tụng trước tòa. Hội sẽ thanh toán chiếu theo các định khoản của khế ước về sự thanh toán, trừ những định khoản nào bất hợp pháp hay trái nghịch với quyền lợi của người đệ tam.
1279._ Trường hợp các người đệ tam: Sự vô hiệu vì hội thành lập bất hợp lệ, hay không công bố, không thể được hội viện dẫn để đối kháng với người đệ tam, thí dụ một chủ nợ của hội. Lý do là vì các thể thức thành lập và công bố bị luật bó buộc phần nhiều là có mục đích bảo vệ quyền lợi của người đệ tam, chẳng hạn người đệ tam, giao dịch với hội, được biết bản chất của hội, tình hình tài chính của hội, ai là người có trách nhiệm điều khiển hội v.v… cho nên, các hội viên không tuân hành các thể thức ấy là có lỗi và không thể nại ra cái lỗi chính mình để tránh né trách nhiệm đối với người đệ tam.
1280._ Nhưng chính các người đệ tam có quyền được nại sự vô hiệu không? Phần đông tác giả và án lệ cho là người đệ tam có quyền lựa chọn, hoặc nại sự vô hiệu, hoặc cứ coi là sự hữu hiệu. Người đệ tam sẽ lựa chọn một trong hai thái độ, tùy theo quyền lợi của mình. Người đệ tam có lợi nại sự vô hiệu trong trường hợp sau đây: Th1i dụ trường hợp hội hợp tư đơn thường (1233) không làm đầy đủ thủ tục công bố khiến cho người ngoài lầm tưởng một hội viên xuất tư X là hội viên thụ tư, rồi nhân đó, vì tin tưởng vào uy thế và khả năng tài chính của X, người đệ tam đã cho hội vay một số tiền lớn. Nếu X là hội viên thụ tư, phải chịu trách nhiệm cá nhân vô hạn định về công việc của hội, thì người đệ tam có quyền đòi nợ ở X, trong trường hợp hội không trả được. Nhưng người đệ tam đã bị lầm, vì X chỉ là hội viên xuất vốn, theo luật chỉ phải chịu trách nhiệm đến mức số vốn đã xuất ra. Do đó, người đệ tam chủ nợ có lợi nại sự vô hiệu, xin tiêu hủy hội. Một khi hội bị tiêu hủy, chủ nợ sẽ không còn phải đối diện với hai hội viên như trên, mà chỉ còn con nợ đồng loại, kể cả X; tất cả đều là những con nợ thương sự, liên đới, và X sẽ phải trả nợ đầy đủ, ngoại trừ quyền phản cầu lại các hội viên khác.
1281._ Nhưng cũng có khi người đệ tam không được lợi gì nếu đem nại ra sự vô hiệu. Là vì với sự vô hiệu được công nhận, pháp nhân hội bị tiêu diệt, nhân đó, người đệ tam chủ nợ cũng mất luôn quyền bảo đảm trên sản nghiệp của pháp nhân và, khi lấy nợ, sẽ phải chịu sự cạnh tranh của các chủ nợ riêng của mỗi hội viên. Ta phải nhận xét rằng la62p luận này chỉ đúng cho trường hợp tư cách pháp nhân của hội không còn. Nhưng chính trong thời kỳ thanh toán hội để trả nợ, thì pháp nhân hội vẫn còn được tồn tại theo án lệ Pháp, như vậy cái lợi không nại sự vô hiệu nói trên là không có, vì sản nghiệp của hội vẫn là bảo đảm cho các chủ nợ của hội. Sự tồn tại của pháp nhân trong thời kỳ thanh toán được luật Việt Nam minh thị xác nhận trong DLT, điều 1471 (1198).
1282._ Dù sao, mỗi chủ nợ của hội chỉ có thể chọn một trong hai thái độ, không thể có thái độ mâu thuẫn, vừa đòi tuyên bố vô hiệu để tiêu hủy quyền lợi của người khác, lại vừa đòi quyền lợi của mình trên cương vị chủ nợ một hội hợp lệ. Như trên đã nói (số 1278), nếu hợi bị tuyên bố vô hiệu do đơn thỉnh cầu của một chủ nợ, bản án sẽ có hiệu lực erga omnes, đối với tất cả mọi người.
1283._ Trường hợp chủ nợ riêng của các hội viên: Các chủ nợ riêng của các hội viên cũng có quyền hành xử tố quyền vô hiệu hóa để tiêu hủy hội, vì rằng con nợ của họ góp phần nhập hội là bớt đi mất một phần tài sản trong quyền bảo đảm của họ, do đó, họ là những người quan thiết (1268) có lợi ích để xin tuyên bố hợi vô hiệu. Phần đông án lệ và học lý chấp nhận cho các chủ nợ riêng của hội viên có quyền ấy. Tuy nhiên, một phần học l1y phản kháng mạnh mẽ, vì sự vô hiệu sẽ làm cho các chủ nợ của hội bị mất quyền bảo đảm chuyên độc trên tài sản của hội./.

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Nam Lua

Nam Lua

Bình luận

avatar