Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

25. Quá thất trong trách nhiệm do tác động của bản thân

QUÁ THẤT TRONG TRÁCH NHIỆM DO TÁC ĐỘNG CỦA BẢN THÂN

Khi một sự tổn hại xảy đến cho một người nào, tất nhiên người ấy nghĩ đến việc đòi người đã gây ra sự tổn hại phải bồi thường. Nhưng có một vấn đề căn bản liên quan đến nền tảng của trách nhiệm dân sự cần phải giải quyết, đó là, phải chăng tất cả các tác động của cá nhân gây ra sự tổn thiệt sẽ phát động một trách nhiệm dân sự? Hay chỉ có những tác động nào do quá thất của cá nhân mà có, mới đặt ra nghĩa vụ bồi thường? Tùy theo giải pháp được chấp nhận, căn bản và phạm vi của trách nhiệm dân sự sẽ được mở rộng hoặc thu hẹp lại. Vấn đề này, các luật gia không nhất thiết cùng chung một quan niệm. Theo lý thuyêt cổ điển, cần phải có một sự quá thất mới có trách nhiệm dân sự; trái lại, như chúng ta đã rõ, lý thuyết rủi ro phủ nhận điều kiện quá thất. Để hiểu rõ giá trị của hai lý thuyết này, cần phải xét vai trò của quá thất trong ba loại trách nhiệm:
1. Trách nhiệm do tác động của bản thân:
2. Trách nhiệm do tác động của tha nhân:
3. Trách nhiệm do tác động của đồ vật (súc vật và vật vô tri).

QUÁ THẤT TRONG TRÁCH NHIỆM DO TÁC ĐỘNG CỦA BẢN THÂN
Trách nhiệm do tác động của bản thân (Responsabilité du fait personnel: trách nhiệm cá nhân) là trường hợp trách nhiệm thông thường. Vì vậy, các quy tắc áp dụng trong các trường hợp này có tính cách thường luật và có thể đem đối tụng trong tất cả các trường hợp nào mà nhà làm luật không minh thị quy định những quy tắc đặc biệt. Trong phạm vi trách nhiệm do bản thân, bao giờ cũng cần phải có một quá thất thì trách nhiệm mới phát động. Tuy nhiên, ý niệm quá thất rất phức tạp, cần phải đi sâu vào vấn đề để phân tích rõ ràng ý niệm và đề cập đến một vài sự áp dụng đặc biệt của ý niệm ấy. Lần lượt chúng ta sẽ bàn đến ba điểm: 1. Tính cách cần thiết của điều kiện quá thất; 2. Ý niệm quá thất; 3. Vài sự áp dụng đặc biệt của ý niệm quá thất.
1: TÍNH CÁCH CẦN THIẾT CỦA ĐIỀU KIỆN QUÁ THẤT. Để vạch rõ tính cách cần thiết của điều kiện quá thất, trước hết phải giải thích các điều luật liên quan đến trách nhiệm dân sự phạm và trách nhiệm khế ước; sau đó chúng ta sẽ thảo luận về vấn đề này về phương diện lý thuyết thuần túy.
1.1: Phân tích quy định hiện tại của luật pháp về sự quá thất: Đối với trách nhiệm dân sự phạm hoặc chuẩn dân sự phạm, các điều 712 và 713 DLB; 761 và 762 DLT, chỉ dịch nguyên văn hai điều 1382 và 1383 DLP. Điều 1382 DLP: “Tout fait quelconque de l’homme qui cause à autrui un dommage, obge celui par la faute duquel il est arrivé à le réparer” (Phàm tác động do người làm ra mà gây tổn hại cho tha nhân, thì bắt buộc người nào vì quá thất của mình đã gây ra sự tổn hại phải bồi thường sự tổn hại”. Điều 1383 DLP: “Chacun est responsable du dommage qu’il a cause non seulement par son fait, mais encore par sa negligence ou son imprudence” (Mỗi người đều phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do mình gây ra, không chỉ do hành động của mình mà còn do sự sơ ý hoặc bất cẩn của mình nữa). Một vài luật gia căn cứ vào danh từ tác động được dùng từ hai điều luật trên, chủ trương rằng trong ý nhà làm luật trách nhiệm dân sự có thể phát động mà không cần đến điều kiện quá thất. Bất luận một tác động nào của cá nhân gây ra sự thiệt hại cho người khác cũng phát sinh ra nghĩa vụ bồi thường. Giải thích như vậy là hiểu sai ý nhà lập pháp. Danh từ tác động trong tại các điều luật 1382 DLP, 712 DLB và 761 DLT mà nhà làm luật đã đề cập, có nghĩa là người ta cố ý làm. Trong điều luật này, nhà làm luật đã so sánh đối chiếu các tác động là các sự kiện cố ý với các sự sơ ý hay bất cẩn là các sự kiện ngoại ý. Hiểu như vậy, chúng ta thấy rõ rằng đối với các sự kiện cố ý, trách nhiệm dân sự chỉ phát sinh trong trường hợp có một sự quá thất. Đối với các sự kiện ngoại ý, quá thất có thể là một sự sơ ý hay bất cẩn. Như vậy, bất luận trong trường hợp nào, trách nhiệm chỉ phát sinh nếu có một sự quá thất của người gây ra tổn hại. Tuy nhiên, đối với nguyên tắc này, nhà làm luật có thể minh thị dự định ngoại lệ. Nói cách khác, các trường hợp trách nhiệm không có quá thất cần phải được một đạo luật đặc biệt quy định rõ. Thí dụ, Bộ luật Lao Động dự định rằng, về các tai nạn lao động, người chủ phải chịu trách nhiệm, mà người thợ không cần phải dẫn chứng sự quá thất của người chủ. Nói tóm lại, trong phạm vi trách nhiệm dân sự phạm, trách nhiệm chỉ phát động nếu như có một sự quá thất, trừ trường hợp đặc biệt nhưng rất hiếm, luật minh thị dự định một trách nhiệm mà không cần quá thất. Đối với trách nhiệm khế ước, người ta chủ trương rằng, sự bất thi hành nghĩa vụ đủ phát động trách nhiệm, mà không cần dẫn chứng sự quá thất của người phụ trái. Lý luận này căn cứ theo Điều 1147 và 1148 DLP mà hai bộ luật DLB, DLT đã dịch lại nguyên văn thể hiện tại các điều 684 và 685 DLB; 725 và 726 DLT. Điều 684 DLB và 725 DLT quy định: “Người phụ trái có thể bị phạt trả bồi tổn, hoặc vì không thi hành, hoặc vì chậm thi hành nghĩa vụ, trong tất cả những trường hợp không biện minh được rằng sự bất thi hành do ở một nguyên nhân do ngoại tại không thể quy trách nhiệm cho họ được, mặc dù họ không có tà tâm cũng vậy”. Điều 685 DLB và 726 DLT quy định: “Nếu do một trường hợp bất khả kháng hay ngẫu nhiên, người phụ trái bị ngăn cản không thể chuyên hữu hay không thể làm việc mình đã cam kết hoặc đã làm việc mình bị cấm đoán không được làm, thì sẽ không phải trả bồi tổn”. Nói tóm lại, khi có sự bất thi hành nghĩa vụ, người phụ trái phải dẫn chứng được một trường hợp bất khả kháng hay ngẫu nhiên, nghĩa là một duyên cớ ngoại tại, không thể quy trách nhiệm cho họ thì họ mới tránh được sự bồi thường cho trái chủ. Trái lại, người này không cần phải dẫn chứng sự quá thất của người phụ trái. Với các điều luật được viện dẫn, phải chăng lý thuyết rủi ro đã chiếm được ưu thế trong phạm vi trách nhiệm khế ước?
Sự thực, đối với trách nhiệm khế ước, nghĩa vụ bồi thường chỉ phát động khi nào có một quá thất của người phụ trái. Như vậy, phải tìm cách giải thích hai điều luật 1147 và 1148 DLP cho hợp với kết luận này. Một vài luật gia giải thích rằng, trong hai điều 1147 và 1148 DLP, nhà lập pháp đã dự đoán quá thất của người phụ trái không thi hành nghĩa vụ. Nhờ ở sự dự đoán ấy, người trái chủ không phải dẫn chứng quá thất cảu người phụ trái mà vẫn phải bồi thường. Lời giải thích này cũng chưa được xác đáng, vì nếu quả thật nhà lập pháp dự đoán sự quá thất của người phụ trái, thì người này phải được quyền dẫn chứng rằng họ không hề làm quá thất nào để khỏi phải chịu trách nhiệm. Nhưng giải pháp này không được chấp nhận. Người phụ trái bắt buộc phải chứng minh được một nguyên do ngoại tại mới tránh được khỏi phải bồi thường. Giáo sư Pierre Mazeaud đã tìm một lối biện minh khác, hợp lý hơn. Theo giáo sư Pierre Mazeaud, nếu chứng minh được rằng, trong tất cả các nghĩa vụ không được thi hành do tác động của người phụ trái, chúng ta đều tìm thấy một quá thất của người này, thì các quy tắc do các nhà lập pháp đặt ra trong hai điều 1147 và 1148 DLP, không phải là những ngoại lệ đối với nguyên tắc “Trách nhiệm phải do sự quá thất gây ra”. Chúng ta đã biết, các nghĩa vụ có thể phân làm hai loại: Nghĩa vụ xác định và nghĩa vụ cẩn mẫn tổng quát. Đối với nghĩa vụ xác định, nếu người phụ trái tự họ không thi hành và không đem lại cho người trái chủ kết quả mà họ đã hứa thì họ đã làm một quá thất vì họ đã vi phạm vào nguyên tắc Pacta sunt servanda (khế ước thúc buộc). Do đó, riêng sự bất thi hành nghĩa vụ cũng đã, tự nó, bao hàm sự quá thất của người phụ trái và vì lẽ ấy, người trái chủ không cần phải dẫn chứng quá thất này cũng được bồi thường. Đối với loại nghãi vụ cẩn mẫn tổng quát, như nghĩa vụ của y sĩ đối với bệnh nhân, trong trường hợp bất thi hành nghĩa vụ, người phụ trái có làm một sự quá thất không? Lẽ dĩ nhiên, phải trả lời là có. Nhưng ở đây, về phương diện dẫn chứng, người trái chủ không được ưu đãi như trong trường hợp nghĩa vụ xác định. Vì muốn biết rõ rằng, nghĩa vụ không được thi hành, cần phải xét tác phong của y sĩ, phải tìm xem y sĩ có làm một điều gì sơ ý hay bất cẩn chăng. Chính vì lẽ ấy, người trái chủ, muốn được bồi thường, phải dẫn chứng được điểm này. Và cũng vì lẽ ấy, có một sự sai biệt trong gánh nặng dẫn chứng đối với hai loại nghĩa vụ – nghãi vụ xác định và nghĩa vụ cẩn mẫn tổng quát. Song dưới sự sai biệt này, vẫn có một đặc điểm chung cho tất cả các nghĩa vụ: trách nhiệm khế ước chỉ phát động khi có một quá thất trong sự bất thi hành nghĩa vụ. Để biện minh ch kết luận này,nhiều luật gia còn viện dẫn thêm các điều 1137 DLP, 677 DLB và 718 DLT. Theo các điều luật này, cho đến khi giao đồ vật, người đính ước phải bảo tồn vật ấy với sự cẩn thận của một người quản lý chu đáo và sẽ bị phạt bồi tổn nếu sơ ý hay có tà tâm. Tuy nhiên, nếu là sự chuyển dịch vô thường, người đính ước chỉ phải gìn giữ cẩn thận. Các điều luật này, chứng tỏ rằng người trái chủ muốn được bồi thường phải dẫn chứng được một sự quá thất của người phụ trái đã không bảo tồn được đồ vật cẩn thận. Nhưng thiết tưởng, không cần phải viện dẫn tới các điều luật 1137 DLP, 677 DLB và 718 DLT để chứng tỏ rằng trách nhiệm khế ước cũng được đặt trên căn bản quá thất, vì các điều luật này chỉ có một tầm hiệu lực hạn định vào một loại khế ước phải giao đồ, không có một phạm vi áp dụng tổng quát như các điều 1147, 1148 DLP và 684, 685 DLB; hay 725 và 726 DLT. Hơn nữa, các điều luật này thường chỉ được coi là những điều khoản có tính cách bổ sung cho ý chí của các người kết ước và như vậy, có thể do những điều khoản minh thị trong khế ước thay đổi. Để kết luận, phân tích các điều khoản trong các bộ dân luật hiện tại liên quan đến trách nhiệm dân sự phạm, hay chuẩn dân sự phạm hoặc trách nhiệm khế ước, chúng ta nhận thấy rõ ràng trách nhiệm dân sự chỉ phát sinh nếu như có một sự quá thất gây ra sự tổn hại. Về phương diện lý thuyết thuần túy, giải pháp này có xác đáng không?
1.2: Phê bình lý thuyết cổ điển và lý thuyết rủi ro: Theo lý thuyết cổ điển, nền tảng lý thuyết của trách nhiệm dân sự là sự quá thất. Nếu một người gây ra sự tổn hại mà không làm một điều gì có thể coi là một quá thất, thì tất nhiên không phải bồi thường tổn hại ấy, và nạn nhân phải chịu thiệt hại. Song nhiều khi nạn nhân lại ở trong tình trạng rất đáng thương hại vì nghèo khổ chẳng hạn. Các lý do công bằng xã hội đã thúc đẩy nhiều luật gia, như
Raymond Saleilles Louis Josserand, chủ trương lý thuyết rủi ro. Trách nhiệm dân sự sẽ được phát động trong tất cả các trường hợp tổn hại, không cần đến điều kiện quá thất. Lý thuyết này được sáng tạo ra để bênh vực trước tiên quyền lợi của các người thợ bị tai nạn lao động. Lý thuyết này đã mất một phần lớn lợi ích thực tế sau khi luật lao động đã chấp nhận một trách nhiệm khách quan của chủ nhân, không bắt buộc nạn nhân phải dẫn chứng quá thất của người chủ. Tuy nhiên, lý thuyêt rủi ro cũng còn được nhiều luật gia bênh vực trong thế kỷ 20, và nhiều tiêu chuẩn khác đã được đề nghị thay thế lý thuyết cổ điển.
1.2.1: Phê bình lý thuyết rủi ro: Để phê bình lý thuyết rủi ro,cần phán xét các lý lẽ đã được đưa ra để bênh vực lý thuyết ấy.
a. Thoạt đầu tiên, các luật gia chịu ảnh hưởng của Raymond Saleilles  chủ trương một xu hướng “duy vật hóa Dân Luật, và đem vứt bỏ trạng thái tâm lý của luật pháp”. Nếu pháp luật chỉ là một hệ thống gồm các mối tương quan giữa sản nghiệp, không liên hệ đến người, tất nhiên ý niệm quá thất không cần thiết trong các vấn đề trách nhiệm: Khi một sự tổn hại xảy đến với một sản nghiệp, tất phải nghĩ đến sự bồi hoàn cho sản nghiệp ấy. Nhưng sự thật trái hẳn, vì pháp luật trước hết có mục đích quy định những mối tương quan giữa các cá nhân là các phần tử trong xã hội. Các tài sản có xuất hiện trong những mối tương quan ấy cũng chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Như vậy, trong vấn đề trách nhiệm và bồi thường, không thể nào loại được sự kiện xét tác phong của người gây ra sự tổn hại. Về phương diện luân lý, chỉ khi nào người này làm một sự quá thất mới phải bồi tổn.
b. Lý thuyết rủi ro còn được bênh vực về phương diện công bằng xã hội. Lý thuyết này sẽ đưa lại kết quả mỹ mãn là bảo vệ nạn nhân để chống lại người gây ra tai nạn, bảo vệ người yếu chống lại kẻ khỏe. Với lý thuyết trách nhiệm không có quá thất, nạn nhân bao giờ cũng chắc chắn được bồi thường. Tuy nhiên, luận cứ này không xác đáng, nạn nhân không phải là kẻ yếu, và người gây ra tai nạn củng không phải là kẻ khỏe trong tất cả các trường hợp. Hơn nữa, lý do công bằng xã hội chỉ có thể viện dẫn một cách chính đáng trong các tai nạn lao động; nhưng phạm vi trách nhiệm dân sự rộng rãi hơn nhiều và cần phải có một ý niệm xác đáng hơn về quyền lợi của xã hội. Không phải rằng trong mọi trường hợp, bảo đảm sự bồi thường cho nạn nhân là một giải pháp ích lợi cho xã hội. Trên lập trường lợi ích công cộng, còn cần phải quan tâm đến quyền tự do hoạt động của các cá nhân. Nếu thừa nhận sự bồi thường mà không đòi hỏi quá thất, sức hoạt động của các cá nhân sẽ bị tê liệt vì ai nấy đều không khỏi e sợ gây ra các sự tổn hại phải bồi thường trong khi kinh doanh, mặc dù họ không lầm lỡ làm điều gì có tính cách quá thất.
c. Về phương diện công bằng cá nhân, trong trường hợp nạn nhân không dẫn chứng được quá thất của người gây ra tai nạn, họ sẽ phải gánh lấy sự thiệt hại, như vậy là một sự bất công. Nhưng nếu bắt người gây ra tai nạn phải bồi thường, mặc dù họ không làm điều gì lẫm lỗi hay quá thất, thì giải pháp ấy cũng không hợp lẽ công bằng. Vẫn biết rằng, trong nhiều trường hợp, nạn nhân đáng được bảo vệ hơn người gây ra tai nạn, vì người này, trong khi hoạt động để kiếm lợi đã gây ra tai nạn. Song trong những trường hợp này, vấn đề phải đặt ra là xét xem sự hoạt động để kiếm lợi, nếu gây ra một rủi ro cho người khác, phải chăng là một quá thất? Vẫn biết rằng, đòi hỏi điều kiện quá thất, không khỏi đưa lại một kết quả không mỹ mãn, nhưng trong những trường hợp này, nhà lập pháp có thể đặc biệt can thiệp và dự định một trách nhiệm không có quá thất. Chúng ta phải công nhận với một tinh thần thực tế rằng, trong sự quy định của pháp luật, khó mà tìm được những quy tắc thập phần hoàn hảo. Trong những hoàn cảnh nan giải như vậy, cần phải chấp nhận những quy tắc nào được coi là tiện lợi hơn cả. Về phương diện này, có thể nói rằng, giải pháp đặt trách nhiệm trên căn bản quá thất, vừa thỏa mãn đạo lý, vừa hợp với lợi ích công. Thừa nhận nguyên tắc trách nhiệm không quá thất, sẽ va61tp phải những trở lực nói trên. Tuy nhiên, trong công pháp sự suy luận khác hẳn. Khi một sự tổn hại đã do quốc gia hay một tập thể công lập gây ra cho một cá nhân, không cần phải đặt vấn đề quá thất. Trong trường hợp này, chỉ cần xét xem nạn nhân, nếu không làm điều gì lầm lỗi hay quá thất, có phải gánh chịu hậu quả tổn hại ấy không, hay cần phải để cho cả đoàn thể đảm đương sự tổn hại ấy, nghĩa là để cho cả đoàn thể mà quốc gia thay mặt, phải bồi thường tổn hại ấy cho nạn nhân. Về phương diện công bằng, các phần tử trong xã hội, phải gánh vác đồng đều các đảm phụ công cộng. Như vậy, không thể riêng một cá nhân phải chịu một sự tổn hại do quốc gia gây nên. Nói tóm lại, trong dân luật khác hẳn công pháp. Không thể chấp nhận lý thuyết trách nhiệm không quá thất hay trách nhiệm khách quan (Responsabilité sans faute ou responsabilité objective). Sự phát động trách nhiệm dân sự trong dân luật bao giờ cũng đòi hỏi điều kiện quá thất, trừ phi nhà lập pháp minh định khác trong những luật đặc biêt thì không kể. Tuy nhiên, lý thuyết trách nhiệm khách quan đã có một ảnh hưởng khá quan trọng trong học lý. Nhiều tiêu chuẩn trách nhiệm khách quan đã được đưa ra để thay thế cho tiêu chuẩn trách nhiệm chủ quan căn cứ trên quá thất.
1.2.2: Các tiêu chuẩn trách nhiệm khách quan: Đứng trước những sự chỉ trích xác đáng mà chúng ta đã phân tích, các luật gia không còn bênh vực lý thuyết rủi ro dưới hình thức nguyên thủy nữa. Song, vận căn cứ vào ý niệm trách nhiệm khách quan, nhiều tiêu chuẩn khác đã được đề nghị:
– Tiêu chuẩn thứ nhất là phân biệt hành vi thường và hành vi bất thường (acte normal et acte anormal: hành động bình thường và hành động bất thường). Chỉ riêng hành vi bất thường mới phát động trách nhiệm dân sự. Song dưới hình thức này, người ta đã vô tình trở lại lý thuyết cổ điển về quá thất với sự phân biệt hành vi quá thất với hành vi không quá thất (acte fautif et non fautif; hành vi sai trái và không sai trái). Hành vi bất thường chỉ là loại hành vi quá thất, vì quá thất có thể định nghĩa là tác phong của người nào đã hành động khác người thường.
– Tiêu chuẩn thứ hai là căn cứ vào sự “rủi ro – lợi ích” (risque – profit: rủi ro – lợi nhuận). Người nào, trong kinh doanh có lợi cho mình, đã gây ra một sự rủi ro cho người ngoài cuộc, thì nếu xảy ra một sự thiệt hại, người ấy phải bồi thường sự thiệt hại này, mặc dù là không làm điều gì quá thất. Tiêu chuẩn “rủi ro – lợi ích” đã được kiến tạo để bảo vệ quyền lợi người công nhân trong các tai nạn lao động. Ngày nay, vấn đề này đã được giải quyết trong các bộ luật Lao động; như vậy, tiêu chuẩn ấy cũng đã mất một phần lớn lý do tồn tại. Các luật gia đã biến cải tiêu chuẩn “rủi ro-lợi ích” thành một hình thức mới “rủi ro tạo lập” (risque créé: rủi ro được tạo ra), có một phạm vi áp dụng rộng rãi hơn. Theo tiêu chuẩn này, bất luận là sự kinh doanh được thực hiện trực tiếp hay gián tiếp, với sự trung gian hay trợ lực của người đệ tam, mỗi khi sự kinh doanh ấy có lợi cho người nào thì người này phải chịu trách nhiệm về các sự tổn hại, mặc dù không làm điều gì quá thất. Như vậy, với tiêu chuẩn này, lý thuyết trách nhiệm khách quan còn có một phạm vi rộng rãi hơn nữa, vì người chịu trách nhiệm có thể không phải là người làm ra hành vi gây tổn hại, còn có thể là người được hưởng lợi ích của sự hoạt động của kẻ trong khi hoạt động cho họ đã gây ra tổn hại. Hiện nay, rất hiếm luật gia chủ trương rằng phải thay hẳn căn bản chủ quan của trách nhiệm dân sự bằng một căn bản khách quan, không đòi hỏi điều kiện quá thất. Tuy nhiên, một số luật gia chấp nhận quan điểm của giáo sư
René Savatier: trách nhiệm dân sự có hai khu vực; một khu vực chính yếu nhìn nhận căn bản chủ quan và đặt trách nhiệm trên căn bản cổ điển của quá thất; một khu vực phụ thuộc, do nhà lập pháp ấn định trong những đạo luật đặc biệt, đã nhìn nhận lý thuyết trách nhiệm khách quan không cần quá thất. Lý thuyết chiết trung này, có lẽ đúng hơn cả và phù hợp với hiện trạng pháp luật. Chúng ta đã rõ trong các bộ luật lao động của Pháp hay Việt Nam, nhà lập pháp đã đặc biệt chấp nhận quan niệm trách nhiệm khách quan để bảo vệ quyền lợi của các công nhân một cách hiệu quả. Chúng ta sẽ có dịp phân tích nhiều đạo luật khác cùng theo một đường lối trong phạm vi trách nhiệm do tác động của các đồ vật gây ra. Nhưng điều cần nhận định rõ là khu vực trách nhiệm khách quan chỉ có tính cách phụ thuộc và nhà làm luật cần phải rất thận trọng mỗi khi mở rộng phạm vi này bằng một đạo luật đặc biệt. Gần đây, năm 1958, giáo sư B.Starck đã đề nghị một lý thuyết mới về căn bản của trách nhiệm dân sự. Cũng như lý thuyết của René Savatier, lý thuyết của giáo sư B.Starck chủ trương rằng, quá thất chỉ là căn bản của trách nhiệm dân sự trong một phần lãnh vực này mà thôi. Nhưng khác với René Savatier, đã giải thích các trường hợp trách nhiệm không có quá thất bằng ý niệm rủi ro, giáo sư B.Starck đã đưa ra lý thuyết đảm bảo (théorie de la garanti). Lý thuyết bảo đảm khác với tất cả các lý thuyết hiện hữu vì đã tìm căn bản trách nhiệm dân sự trong một phương hướng mới. Từ trước, bất luận thuộc về phái cổ điển chủ trương rằng quá thất phải là căn bản của tất cả các trường hợp trách nhiệm hoặc thuộc về phái xã hội công nhận rằng, sự rủi ro có thể coi là căn bản của trách nhiệm dân sự ít nhất trong một số trường hợp, các luật gia đều đi tìm căn bản trách nhiệm dân sự trong thái độ hoặc trong tình trạng tâm lý của người đã gây ra tổn thất. Do đó, những lý thuyết này đều nhuộm sắc thái chủ quan. Trái lại, luật gia Starck để nghị rằng phải tìm kiếm căn bản trách nhiệm trong những quyền lợi của nạn nhân. Sở dĩ các nạn nhân được quyền bồi thường là vì có những quyền lợi được đảm bảo. Như vậy, lý thuyết đảm bảo không xét tới tâm trạng và thái độ của người gây ra tai nạn mà chỉ xét tới quyền lợi của nạn nhân. Do đó, thuyết này có môt sắc thái khách quan (Lý thuyết đảm bảo đã do Giáo sư Starck trình bày trong Revue Trimestrielle de droit civil 1958, trang 475 đến 515). Theo lý thuyết này, phải phân biệt: 1. Các tổn hại về thân thể và tài sản (dommages corporels et matériels: thiệt hại về thể xác và vật chất); 2. Các sự tổn hại khác về kinh tế và tinh thần (dommages économiques et moraux: thiệt hại về kinh tế và đạo đức).
– Đối với loại tổn hại xâm phạm đến thân thể và tài vật, vì tất cả các phần tử trên xã hội có quyền được bảo đảm về tính mạng và tài sản của mình, cho nên, mỗi khi các sự tổn hại xảy ra, người gây ra sự tổn hại phải đương nhiên bồi thường. Nạn nhân không cần phải dẫn chứng sự quá thất nào cả. Nói khác đi, loại tổn hại về thân thể và tài vật là lãnh vực của trách nhiệm dân sự không cần sự quá thất, nghĩa là trách nhiệm khách quan.
– Đối với loại tổ hại kinh tế và tinh thần, giải pháp lại khác hẳn. Trong lĩnh vực này, các cá nhân không được hưởng sự đảm bảo vào vì lẽ mỗi người đều có những tự do cá nhân mà luật pháp đã công nhận. Ví dụ: sự tự do buôn bán cho phép các phần tử xã hội được tự do cạnh tranh trên thương trường. Tình trạng này có thể gây sự thua thiệt cho một thương gia nào đó, nhưng thương gia này không thể vì lý do ấy mà xin bồi thường. Su75tu75 do ngôn luận lại cho các nhà văn hay nhà báo sự tự do chỉ trích, phê bình. Tình trạng này cũng có thể gây ra một sự tổn hại cho một văn sĩ nào đó. Nhưng đương sự cũng không thể vì lẽ ấy mà kiện xin bồi thường. Nói t1om lại, tất cả các sự tự do cá nhân, các quyền lợi chủ quan đã đem lại một quyền năng được gây ra sự tổn thất mà không bị chế tài. Tuy nhiên, quyền năng này không phải là tuyệt đối. Khi người gây ra tai nạn trong việc sử dụng quyền lợi hay tự do của mình đã làm một quá thất, người đó đã vượt quá giới hạn của quyền năng mà luật pháp đã ban cấp cho. Trong những trường hợp này, họ cũng phải chịu trách nhiệm dân sự. Như vậy, lý thuyết của giáo sư Starck cũng còn công nhận một lãnh vực cho trách nhiệm căn cứ vào quá thất. Song giáo sư Starck đã nhấn mạnh vào những đặc điểm sau đây:
+ Phạm vi của trách nhiệm không có quá thất đã được lý thuyết đảm bảo nới rộng rất nhiều, vì đại đa số các tổn hại đều xâm phạm đến thân thể hoặc tài vật của nạn nhân. Trong tất cả các trường hợp này, nạn nhân không cần phải dẫn chứng một sự quá thất của người gây ra tai nạn. Điểm này lẽ dĩ nhiên là một sự thuận tiện cho nạn nhân trong việc kiện đòi bồi thường. Ngoài ra, lý thuyết đảm bảo còn có một điều rất tiện lợi cho nhà lập pháp hoặc cho tòa án khỏi phải tốn công tìm kiếm những biện pháp để che chở nạn nhân mỗi khi trong thực tế người ta thấy xuất hiện ra một yếu tố mới khả dĩ có thể gây ra tổn hại cho đời sống và tài sản của nạn nhân. Ngược dòng lịch sử, ta nhận thấy rằng khi bộ Dân Luật Napoleong 1804 được soạn thảo, trong thực tế chỉ có các loài vật và các bất động sản có thể gây ra những tổn hại khó dẫn chứng. vì vậy các nhà làm luật thời ấy chỉ quy định hai trường hợp này, trong các điều 1385 và 1386 DLP. Về sau, trong hạ bán thế kỷ thứ 19, với phong trào cơ giới hóa kỹ nghệ, các tai nạn do đồ vật hay máy móc gây ra rất nhiều và cũng rất khó dẫn chứng. Vì vậy, án lệ đã phải giải thích một cách khoan đại điều 1384 khoản 1 DLP để đi đến lý thuyết giám thủ, hầu như nhìn nhận một trách nhiệm khách quan trong những trường hợp này. Trong thế kỷ 20, với sự khuếch trương của kỹ nghệ hàng không, nhà lập pháp cũng đã nhìn nhận một trách nhiệm khách quan trong những tai nạn do những phi cơ gây nên. Theo chiều hướng này, mỗi khi có một nguồn tai nạn mới xuất hiện, trong thực tế nếu có sự dẫn chứng quá thất xét ra rất khó  khăn, thì nhà lập pháp lại phải nới rộng phạm vi của trách nhiệm khách quan. Chắc chắn rằng trong tương lai gần đây, với sự sử dụng nguyên tử lực sẽ có những su75to36n hại trong loại nói trên và nhà lập pháp sẽ bị bắt buộc phải can thiệp. Như vậy, tốt hơn hết, là nên chấp nhận lý thuyết đảm bảo vì lý thuyết này có một căn bản hợp lý và hoặc định rõ rệt phạm vi trách nhiệm khách quan, không cần tới sự can thiệp của án lệ hay của nhà làm luật cho mỗi trường hợp riêng biệt. Phạm vi này, chúng ta đã biết, bao gồm tất cả các sự tổn hại xâm phạm đến đời sống và tài sản của các cá nhân trong xã hội. Quan điểm của giáo sư Starck sẽ đơn giản hóa các tình trạng lý thuyết trong lĩnh vực trách nhiệm dân sự; người ta sẽ không cần phải phân biệt trường hợp các sự tổn hại do tác động của đồ vật, của người hay của loài vật gây nên. Bất luận nguồn gốc của sự tổn hại thuộc loại nào, nạn nhân cũng không phải dẫn chứng nếu như đời sống hay tài sản của nạn nhân đã bị xâm phạm.
+ Khác với lý thuyết cổ điển, lý thuyết của Giáo sư Starck giải thích một cách hợp lý thái độ hiện thời của các án lệ đối với trách nhiệm của thiếu nhi, của người điên, của pháp nhân và của người ủy phái: Theo lý thuyết cổ điển, căn cứ vào sự quá thất, thì những người điên, những thiếu nhi, những pháp nhân hay người ủy phái không thể làm quá thất được, vì thiếu nhi, người điên và pháp nhân không có ý thức về việc mình làm, còn đối với người ủy phái, sở dĩ họ không chịu trách nhiệm là vì người thụ phái chứ không phải họ đã làm quá thất. Lý luận này không phù hợp với án lệ lệ hiện thời, thường coi các người điên, các thiếu nhi, các pháp nhân cũng như các người ủy phái phải chịu trách nhiệm. Lý thuyết của giáo sư Starck sẽ giải quyết dễ dàng vấn đề này, vì một khi có sự tổn hại xâm phạm đến đới sống hay tài sản của nạn nhân thì bất luận là thiếu nhi hay người điên hoặc pháp nhân hay người ủy phái đã gây ra sự tổn hại ấy, vấn đề quá thất không cần phải nêu ra. Lý thuyết đảm bảo còn cắt nghĩa cả được trách nhiệm dân sự trong trường hợp một sự tổn hại đã bị gây ra trong tình trạng khẩn thiết. Mặc dù tình trạng khẩn thiết được luật pháp công nhận, song sự tổn hại ấy cũng cần phải được bồi thường vì lý do đã nói trên. Tuy vậy, giáo sư Starck cũng công nhận rằng lý thuyết đảm bảo không phù hợp với hai trường hợp trong hiện trạng của dân luật Pháp. Trường hợp thứ nhất liên hệ đến vấn đề trách nhiệm dân sự trong các cháy đã được giải quyết trong đạo luật ngày 7 tháng 11 năm 1922. Nhưng đạo luật này là một trừ lệ đặc biêt và thường bị chỉ trích trong học lý. Trường hợp thứ hai là trường hợp chuyên chở với hảo ý. Theo án lệ hiện thời, người nạn nhân được chuyên chở với hảo ý phải dẫn cứng được quá thất của người chuyên chở mới được bồi thường. Nhưng những trừ lệ này cũng rất hiếm; vì vậy theo giáo sư Starck, lý thuyết đảm bảo vẫn giữ nguyên giá trị của nó.
+ Ta không nên nhầm lý thuyết rủi ro với lý thuyết đảm bảo: Trong lý thuyết rủi ro, trách nhiệm dân sự phát xuất từ hoạt động của người gây ra tai nạn. Về phương diện chuyên môn, lý thuyết này không có tính cách chính xác, vì không thể biết rõ bắt đầu từ giới hạn nào hoạt động của cá nhân trong xã hội sẽ đem lại trách nhiệm dân sự. Hơn nữa, người ta cũng kho6ngh iểu tại sao các thẩm phán lại không đồng thời xét đến cả hoạt động của nạn nhân nữa. Trái lại, trong lý thuyết đảm bảo, phạm vi trách nhiệm khách quan, như chúng ta đã biết, được hoạch định một cách rõ rệt. Trách nhiệm không quá thất bao gồm tất cả những hành vi đã gây ra một sự tổn hại cho đời sống hay tài sản của cá nhân. Lý thuyết đảm bảo căn cứ vào quyền lợi của người bị thiệt hại hơn là việc xét thái độ của người gây ra tai nạn. Ngoài ra, lý thuyết đảm bảo cũng không nhất thiết gạt hẳn căn bản cổ điển của trách nhiệm dân sự là quá thất, mà chỉ thu hẹp phạm vi của căn bản này.
+ Sau hết, lý thuyết đảm bảo một đôi khi bị chỉ trích vì một số luật gia cho rằng, nếu thừa nhận một trách nhiệm dân sự mà không đòi hỏi một quá thất, thì quan niệm đó sẽ gây hoang mang trong xã hội về phương diện công bằng. Trong thuyết cổ điển, người nào làm lỗi thì quá thất bắt buộc họ phải bồi thường. Thế quân bình này không còn được duy trì trong thuyết đảm bảo, vì lý thuyết này không chú trọng đến quá thất trong một phạm vi lớn. Bị một trách nhiệm vô căn nguyên đè bẹp, cá nhân sẽ không biết căn cứ vào tiêu chuẩn nào để hành động cho đúng luật và chỉ còn một cách khoanh tay thụ động mới thoát khỏi trách nhiệm. Giáo sư Starck đã trả lời sự chỉ trích này một cách rất tế nhị: trong thế quân bình nói trên, người ta đã đặt lên bàn cân hai giá trị: Một bên là trách nhiệm, một bên là quá thất; nhưng một trong hai giá trị đó chỉ là một quả cân rỗng. Thật vậy, điểm qua các án lệ và luật pháp, người ta đã nhận thấy xuất hiện bao nhiêu hình thức quá thất như những quá thất phỏng đoán, quá thất trừu tượng, quá thất khách quan, quá thất vô tội (faute sans culpabilité: Có lỗi mà không có tội), cho tới cả những sự bất cẩn hay sơ ý dù nhỏ nhặt đến đâu cũng kể, khiến cho chúng ta có cảm tưởng rằng, chúng ta đang chứng kiến sự tan biến của ý niệm quá thất. Đứng trước hiện tượng này, có thể nói rằng, ở một bên bàn cân không còn gì nữa. Vẫn biết rằng lý thuyết cổ điển còn muốn bám chặt vào ý niệm quá thất để giải thích trách nhiệm dân sự, nhưng thực tế, ý niệm này đã tan vỡ trong rất nhiều trường hợp, và đã từ lâu, người ta hiểu rằng, có nhiều trách nhiệm dân sự không căn cứ vào quá thất. Chính vì lý do đó, ngành bảo hiểm đã khuếch trương được khá mạnh kể từ đầu thế  kỷ 20. Sự phát triển của các ngành bảo hiểm cũng chỉ là một khía cạnh khác của lý thuyết bảo đảm. Có thể nói rằng, sự bảo hiểm các tai nạn chỉ là sự phóng lên bình diện thực tế của lý thuyết bảo đảm mà thôi.
2: Ý NIỆM QUÁ THẤT. Trách nhiệm dân sự phạm hay chuẩn dân sự phạm hoặc trách nhiệm khế ước chỉ phát động nếu như người gây ra sự tổn hại đã làm một quá thất. Vậy cần phải hiểu rõ ý niệm quá thất. Khi nào có quá thất? Vấn đề này quan trọng đặc biệt, vì vậy đã được Tòa phá án Pháp kiểm soát chặt chẽ. Chúng ta đã biết các Tòa án xử về thực tại, có thể tuyên phán rằng, một sự kiệnđã xảy ra thực sự, chẳng hạn thưa 2nha65n là đúng việc người tài xế lái xe chạy 80 ki lô mét một giờ, giữa một thị xã đông đúc. về điểm thực tại này, Tòa phá án không kiểm soát quan điểm của các Tòa án dưới. Các dữ kiện đã được tòa án thừa nhận trước các Tòa án này thì không thể dị nghị. Nhưng về điểm định danh (qualification: trình độ chuyên môn) để xét xem những dữ kiện này có tính cách một quá thất hay không, Tòa Phá án sẽ kiểm soát lại. Nhờ ở sự kiểm soát này, ta có một ý niệm rõ về quá thất. Sự thật, vấn đề này đã được thảo luận rất nhiều trong học lý. Theo học thuyết cổ điển, quá thất là hành vi bất hợp pháp, có thể qui trách cho người đã làm ra hành vi ấy. Định nghĩa này gồm có hai yếu tố: Sự bất hợp pháp (illiceite: trái pháp luật) và sự qui trách (imputabilité: trách nhiệm giải trình). Yếu tố thứ nhất không có tính cách chính xác, vì không thể biết rõ trong trường hợp nào sẽ có tính cách bất hợp pháp. Yếu tố thứ hai đòi hỏi rằng người làm sự quá thất phải có tri thức (discernement: sự sáng suốt) để nhận thức rằng mình đã làm một điều lầm lỗi. Yếu tố này sẽ đưa lại một sự thẩm lượng quá thất theo quan niệm cụ thể (appréciation in concreto), nghĩa là, thẩm lượng theo khả năng tinh thần riêng của đương sự. Về mặt lý thuyết, giải pháp này trái với với giải pháp được án lệ chấp nhận. Hơn nữa, về mặt thực tế, giải pháp này cũng khó thực hiện, vì không thể biết chắc chắn khi nào được sự hành động có trí thức hay không. Giáo sự Marcel Planiol đã đưa ra một tiêu chuẩn khác: Quá thất là một sự vi phạm vào một nghĩa vụ đã sẵn có (un manquement à une obligation préexistante: vi phạm nghĩa vụ đã có từ trước). Chúng ta đã rõ định nghĩa này rất đúng về phương diện lý thuyết. Khi có một sự quá thất đã xảy ra, bao giờ cũng có một nghĩa vụ bị xâm phạm, nghĩa vụ ấy có thể có tính cách pháp định hay ước định. Song lý thuyết của Marcel Planiol cũng không được hoàn hảo, vì trong thực tế, các biên tế của địa hạt quá thất cũng không được hoạch định rõ rệt. Đối với nghĩa vụ thành quả hay nghĩa vụ xác định, vấn đề không nêu lên một sự khó khăn nào cả. Trái lại, đối với nghĩa vụ cẩn mẫn tổng quát, rất khó biết khi nào có môt sự sơ ý hay một sự bất cẩn. Để tránh sự chỉ trích này, giáo sư Marcel Planiol đã đưa ra một sự phân loại các nghĩa vụ hiện đã sẵn có. Theo Marcel Planiol, không thể nào liệt kê đầy đủ tất cả các quá thất, vì các quá thất rất khác biệt và nhiều vô tả. Nhưng có thể phân loại các quá thất. Trước hết, quá thất có thể là một sự vi phạm vào một quy điều luật pháp ấn định rõ rệt một điều gì phải làm hay không được làm. Trong trường hợp này, quá thất là một hành vi phi pháp đích danh. Quá thất cũng có thể là một sự đối xử bất thường, chứng tỏ một sự bất chánh hay một sự vụng về, về phương diện thể xác hay tinh thần. Sau hết, quá thất còn có thể là một sự vô ý, bất cản gây ra một tình trạng thiệt hại cho một người khác. Nhưng sự phân loại này không được rõ rệt, có lẽ tác giả cố ý muốn như vậy, để lâm thời có thể tiện bề xếp một hành vi vào một loại nào không nhất định. Sự thật, nếu phân tích án lệ, ta sẽ nhận rõ trong mỗi vụ kiện, các thẩm phán tử hỏi xem được sự có làm một việc quá thất không? Điềm này tỏ rõ rằng, sự phân loại của  Marcel Planiol không được áp dụng trong thực tế. Theo phần đông học lý, trong sự phân biệt ý niệm quá thất, cần phải phân biệt hai trường hợp: Sự quát thất cố ý (faute intentionnelle: lỗi cố ý) và sự quá thất ngoại ý (faute non intentionnelle: lỗi vô ý). Trên phương diện thực tế, sự phân biệt này tương ứng với nhiều sai biệt:
a. Trong một vài địa hạt, như trong khế ước chuyên chở chẳng hạn, hai bên kết ước thường hạn chế ngạch số bồi tổn tới mức nào – nhiều khi các sự hạn chế còn do luật pháp ấn định. Tuy nhiên, các sự hạn chế này sẽ không được áp dụng, khi người gây ra sự tổn hại đã phạm một quá thất cố ý. Trong trường hợp ấy, tất cả các sự tổn thiệt phải được bồi thường, mặc dù có những hạn chế pháp định hay ước định.
b. Ngạch số bồi tổn, trong phạm vi trách nhiệm khế ước, được giới hạn theo các sự tổn hại có thể tiên liệu được. Nhưng sự bất thi hành nghĩa vụ có tính chất cố ý hay gian xảo (faute intentionnelle ou dolosive: hành vi sai trái cố ý hoặc gian xảo), người phụ trái sẽ phải bồi thường cả những sự tổn hại bất tiên liệu (imprévisibles: không thể đoán trước).
c. Các khế ước bảo hiểm chỉ có thể bảo hiểm những quá thất ngoại ý và không thể bảo hiểm những sự quá thất cố ý. Thí dụ: Nếu một người bảo hiểm sinh mệnh tự tử để cho các người thừa kế được hưởng tiền bồi thường, thì khế ước bảo hiểm sẽ không được thi hành, vì đây la2mo56t sự quá thất cố ý. Sau khi phân tích ý niệm của hai loại quá thất, chúng ta cũng cần biết những quy tắc liên quan đến sự dẫn chứng về quá thất.
2.1: Quá thất cố ý: Quá thất cố ý thường gọi là quá thất dân sự phạm (faut délictuelle) trong phạm vi trách nhiệm dân sự phạm, hay quá thất gian xảo (faut dolosive: chắc là lừa đảo) trong trách nhiệm khế ước. Nên nhận rõ rằng danh từ gian xảo dùng ở đây chỉ có nghĩa là cố ý. (Danh từ của Pháp, dùng chữ dolosive, khiến nhiều khi người ta tưởng nhầm rằng là một quá thất khi trá, liên hệ đến một sự hà tì của sự ưng thuận. Hiểu như vậy là sai hẳn nghĩa). Muốn biết quá thất có tính cách cố ý hay không, phải phân tích tâm trạng của chính đương sự xem họ có ý làm hành vi ấy không. Như vậy, thẩm phán phải thẩm lượng quá thất cố ý theo quan niệm cụ thể (appréciation in concreto), căn cứ vào các chỉ dẫn liên hệ đến một mình đương sự, không thể lấy một người nào khác làm tiêu biểu để so sánh với đương sự. Theo lối thẩm lượng này, lẽ tự nhiên, trong bất luận trường hợp nào, người điên (dement) và thiếu nhi (enfant) cũng không thể coi được là cố ý làm quá thất. Trường hợp quá thất trọng đại (faute lourde: sai lầm nặng nề) đáng được chú ý đặc biệt. Quá thất trọng đại là một quá thất ngoại ý nhưng rất nặng. Mặc dù đương sự không có ý làm quá thất ấy, nhưng cứ xét các hành vi bề ngoài của đương sự, thì đương sự đã cư xử như là cố ý làm quá thất ấy, vì trừ phi ngu xuẩn, không ai cư xử như vậy. Trong học lý, một số luật gia đã mượn tục dao la tinh “Culpa lata dolo aequiparatur, magna culpa dolus est” (Lỗi rộng là lừa đảo, lỗi lớn là lừa đảo), để đồng hóa quá thất trọng đại với quá thất cố ý trong địa hạt trách nhiệm khế ước. Trong giai đoạn thứ hai, sự đồng hóa này đã được nới rộng cho cả lãnh vực trách nhiệm dân sự phạm nữa. Vì lẽ ấy, hiện nay trong án lệ, trừ trường hợp quá thất trọng đại thường được đồng hóa với quá thất cố ý, trừ khi có một điều khoản trong luật minh thị quy định khác thì không kể. Thí dụ: Luật 13-7-1930 về bảo hiểm không cho phép bảo hiểm các quá thất cố ý, nhưng cho phép bảo hiểm các quá thất trọng đại. Như vậy, nhà làm luật, trong địa hạt bảo hiểm, đã phân biệt rõ hai trường hợp. Khi nào  không có điều khoản rõ rệt như vậy, các thẩm phán thường căn cứ vào tục dao la tinh “Culpa lata dolo aequiparatur” (Quá thất trọng đại tương đồng với sự cố ý). Trong những trường hợp có những ước khoản hạn chế trách nhiệm, hay trù liệu sự vô trách nhiệm, những ước khoản này đều bị án lệ coi là vô hiệu, nếu một sự quá thất cố ý hay trọng đại đã gây ra sự tổn hại. Ngày nay, giải pháp của án lệ đồng hóa hai trường hợp quá thất cố ý và ngoại ý đã bị chỉ trích nhiều. Trên phương diện nguyên tắc, nếu một người không cố ý làm một hành vi gây ra tổn hại, thì hành vi ấy ngu xuẩn đến đâu, cũng không thể đối xử với người ấy như đã cố ý gây ra sự tổn hại ấy. Tuy nhiên, sở dĩ án lệ đã chấp nhận giải pháp trên là vì những hậu quả thực tế. Nếu không có sự đồng hóa này, những người đã cố ý làm một sự quá thất nào đều có thể viện lẽ là mình vì quá ngu dại, nên mới hành động ngu xuẩn như vậy, chứ không phải cố ý gây tổn hại cho người khác. Giáo sư Pierre Mazeaud đã đưa ra một đề nghị chiết trung căn cứ vào mối quan tâm thực tế của án lệ. Đứng trước một quá thất trọng đại, các thẩm phán có thể dự đoán là người hành động như vậy đã cố ý gây ra sự tổn hại. Tuy nhiên, đương sự có quyền viện dẫn phản chứng để đánh đổ sự dự đoán ấy. Giải pháp này hợp lý hơn giải pháp án lệ và khác ở điểm thừa nhận cho đương sự được viện dẫn phản chứng để tỏ rõ rằng mình không cố ý gây ra sự tổn hại. Hiện nay án lệ không thừa nhận quyền này cho đương sự và triệt để đồng hóa quá thất cố ý và quá thất trọng đại về phương diện hiệu lực.
I.2.2: Quá thất ngoại ý: Theo điều 1383 DLP, 713 DLB và 762 DLT, một sự vô ý (une négligence: thiếu trách nhiệm) hoặc một sự bất cẩn (une imprudence: một sự thiếu thận trọng) cũng có thể phát sinh trách nhiệm chuẩn dân sự phạm. Đối với trách nhiệm khế ước, nguyên tắc này cũng được áp dụng, mặc dù không có một điều luật nào quy định minh bạch vấn đề này. Để hiểu rõ ý niệm quá thất ngoại ý, cần phải xét hai điểm: 1. Phương pháp thẩm lượng quá thất ngoại ý; 2. Mức độ trọng đại của quá thất ngoại ý.
1. Phương pháp thẩm lượng quá thất ngoại ý: Trong sự thẩm lượng các quá thất cố ý, các thẩm phán áp dụng phương pháp thẩm lượng cụ thể (appréciation in concreto), xét theo tâm trạng và hành vi riêng của đương sự, xem họ có ý chí làm quá thất gây ra sự tổn hại không. Đối với quá thất ngoại ý, phương pháp này không thể áp dụng được. Một quá thất ngoại ý, tựu chung, chỉ là một lầm lỗi trong phẩm hạnh hay trong cách cư xử. Nếu phải áp dụng phương pháp thẩm lượng cụ thể, nghĩa là chỉ bắt người làm quá thất bồi thường trong trường hợp họ nhận rằng, đã làm một sự lầm lỗi trong cư xử, thì nạn nhân rất ít khi được bồi thường. Vì vậy, cần phải áp dụng phương pháp thẩm lượng trừu tượng (appréciation in abstracto), lấy một người cẩn mẫn làm tiêu chuẩn, rồi đem sự cư xử của người đã gây ra quá thất so sánh với sự cư xử của người này, để tìm xem quá thất nào không. Nếu một người cẩn mẫn sẽ không hành động như người đã gây ra tai nạn, tất nhiên phải kết luận rằng, người gây ra tai nạn đã làm một điều quá thất ngoại ý. Phương pháp này vừa hợp lý vừa có lợi cho nạn nhân. Thí dụ: Một người lái xe hơi rất giỏi, đã cho xe chạy trong thành phố đến 80 km một giờ. Đối với họ, sự cầm lái chạy nhanh như vậy không phải là sự bất cẩn, vì họ còn quen lái xe nhanh hơn thế nhiều. Nếu xảy ra tai nạn, phải thẩm lượng sự bất cẩn của họ theo phương pháp cụ thể, tất nhiên, nạn nhân không được bồi thường. Trái lại, nếu áp dụng phương pháp thẩm lượng trừu tượng, đem so sánh lối lái xe nguy hiểm này với cách lái xe của một người cẩn mẫn, chúng ta sẽ rõ ngay sự quá thất của đương sự. Phân tích phương pháp thẩm lượng trừu tượng, một vài luật gai, như giáo sư Savatier, đã kết luận rằng phương pháp này cho phép khám phá một quá thất khách quan (une faute objective: lỗi khách quan), để vạch rõ rằng, quá thất này được thẩm lượng đối với người ngoài, chứ không phải đối với lương tâm của đương sự như trong phương pháp thẩm lượng cụ thể, chỉ cho phép khám phá những quá thất chủ quan (faute subjective: lỗi chủ quan) mà thôi. Nhưng về phương diện danh từ, cần phải nhận định rõ không nên nhầm lẫn một trách nhiệm căn cứ vào một quá thất khách quan, với một trách nhiệm khách quan, vì lý thuyết trách nhiệm khách quan là lý thuyết rủi ro, chủ trương rằng, trách nhiệm dân sự phát sinh trong tất cả các trường hợp có sự tổn hại, mặc dù không có sự quá thất nào. Một mặc khác, cũng cần nhấn mạnh rằng, trong phương pháp thẩm lượng trừu tượng, không phải tất cả các yếu tố cụ thể không được xét tới. Phương pháp này nhằm mục đích so sánh sự cư xử của người gây ra tổn hại với sự cư xử của một người cẩn mẫn. Song muốn so sánh như vậy, tất nhiên phải đặt người này vào đúng hoàn cảnh của người gây ra tai nạn, nghĩa là, phải xét các yếu tố cụ thể liên hệ đến tai nạn và xét xem phản ứng của hai người trước các yếu tố ấy khác nhau thế nào. Thí dụ: Trong tai nạn lái xe hơi, thẩm phán sẽ xét đến các sự kiện sau: xe chạy ở đâu, có nhiều dân cư hay không, đường xấu hay tốt, trông có rõ không, v.v… Nhưng những sự kiện này chỉ là tình trạng ngoại tại (circonstances extérieures: hoàn cảnh bên ngoài). Trong phương pháp thẩm định trừu tượng, người ta không căn cứ vào tình trạng nội tâm hay tâm lý của người gây ra tai nạn. Hệ luận của phương pháp này là người điên hay thiếu nhi, nếu gây ra một sự quá thất thì cũng bị trách nhiệm, vì một người cẩn mẫn đặt vào hoàn cảnh của họ sẽ không làm như vậy. Nhưng phẩn đông các luật gia và án lệ đều không chấp nhận quan điểm này, và đòi hỏi rằng, người gây ra tai nạn bao giờ cũng phải có tri thức mới phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, để tránh những trường hợp quá bất công, bắt nạn nhân phải chịu gánh nặng của sự tổn hại, mặc dù không làm điều gì lầm lỗi, án lệ cũng đã tìm nhiều biện pháp để điều giảm nguyên tắc nói trên:
a. Án lệ bắt buộc người gây ra sự tổn hại phải dẫn chứng rằng không những mình thường có chứng điên, mà chính đương bị điên lúc gây ra sự tổn hại. Sự dẫn chứng này rất khó, vì muốn đạt mục đích ấy, đương sự phải dẫn chứng rằng, chính lúc ấy, đương sự không ở vào lúc tỉnh trí (intervalle de lucidité: khoảng sáng suốt). Sự viện dẫn một chứng cứ tiêu cực bao giờ cũng rất khó. Án lệ còn phân biệt hành vi mà đương sự không có ý thức, và hành vi mà đương sự làm với ý thức nhưng một cách vô lý. Trong các trường hợp sau, đương sự vẫn phải chịu trách nhiệm:
b. Nếu sự thác loạn tinh thần do một quá thất của đương sự gây nên như nghiện rượu, dâm hành, v.v… đương sự vẫn phải chịu trách nhiệm.
c. Nếu những người có trách nhiệm phải trông coi người điên hay thiếu nhi mà không làm tròn bổn phận canh giữ, họ sẽ phải chịu trách nhiệm. Phần đông các dân luật tối tân đều chấp nhận giải pháp để cho thẩm phán quyền tùy theo trường hợp, thẩm định rằng, người điên hay thiếu nhi có bị trách nhiệm hay không. Thẩm phán sẽ giải quyết vấn đề này theo lẽ công bằng (Điều 829 DL Đức; 1386 Luật nghĩa vụ Thụy sĩ; 918 Dân luật Hy lạp).
2. Mức độ trầm trọng của quá thất ngoại ý: Vẫn biết rằng, quá thất ngoại ý phải được thẩm lượng theo phương pháp trừu tượng, song thẩm phán còn cần phải biết rõ một điểm nữa: quá thất ngoại ý cần phải trầm trọng đến mức nào mới phát động trách nhiệm dân sự. Nói cách khác, người cẩn mẫn dùng làm tiêu chuẩn so sánh có bắt buộc phải là một người rất cẩn mẫn không? Trong trường hợp này, một quá thất rất nhẹ (faute très légère, culpa levissima: lỗi rất nhẹ) cũng đủ phát động trách nhiệm. Nếu người cẩn mẫn trung bình, trách nhiệm chỉ phát động trong trường hợp có một quá thất nhẹ (faute légère, culpa levis: lỗi nhẹ). Nếu lại chỉ là một người rất ít cẩn mẫn, sự phát động trách nhiệm đòi hỏi một quá thất trọng đại (faute lourde, culpa lata: sơ suất trắng trợn, sai lầm nặng nề). Sự thật, để giải quyết vấn đề này, không phải là cần tìm xem người dùng làm tiêu chuẩn so sánh phải là một người cẩn mẫn nhiều hay ít. Về phương diện pháp lý, phải xét nội dung của nghĩa vụ đã bị xâm phạm hoặc không được thi hành. Trong phạm vi trách nhiệm dân sự phạm, theo điều 1383 DLP, 713 DLB, 762 DLT, một sự sơ ý hay bất cẩn cũng đủ để phát động trách nhiệm. Tuy trong luật không định nghĩa rõ sự sơ ý hay bất cẩn, nhưng theo án lệ, một sự quá thất rất nhẹ cũng đủ. Trong thực tế, thầm phán thường tự đặt mình vào hoàn cảnh tương tự và xét xem mình sẽ cư xử như thế nào để phán xử. Trên địa hạt trách nhiệm khế ước, các người kết ước thường quy định rõ trong khế ước thế nào là quá thất ngoại ý. Nếu không có định ước này, thẩm phán sẽ chiếu theo các điều khoản luật pháp bổ sung mà phán xử. Trong cổ luật của Pháp, các luật gia phân biệt ba loại quá thất về trách nhiệm khế ước. Đối với các khế ước có lợi cho người phụ trái, người này chỉ cần làm một quá thất rất nhẹ (culpa levissima), cũng đủ để bị trách nhiệm. Nếu khế ước có lợi cho hai bên kết ước, người phụ trái chỉ phải chịu trách nhiệm trong trường hợp làm một quá thất nhẹ (culpa levis). Và sau cùng, nếu khế ước chỉ có lợi cho trái chủ, trách nhiệm của người phụ trái chỉ phát động hi nào họ làm một quá thất nặng (culpa lata). Lý thuyết phân biệt ba loại quá thất không được các bộ dân luật hiện hành chấp nhận. Ngày nay, trên nguyên tắc, người phụ trái sẽ bị trách nhiệm một khi đã làm một sự quá thất, bất luận nặng hay nhẹ, trừ trường hợp trong khế ước hay trong các điều luật đặc biệt minh thị quy định khác thì không kể, chẳng hạn như trong trường hợp phải bảo tồn đồ vật xác định, chúng ta đã rõ người giao đồ vật phải canh giữ đồ vật ấy như một lương phụ (un bon père de famille: người đàn ông tốt của gia đình) (Điều 1137 dlp), hay như một người quản lý chu đáo (un bon administrateur) (Điều 677DLB, 718 DLT).
2.3: Sự dẫn chứng quá thất: Sự phân tích nội dung của nghĩa vụ bị xâm phạm hay không được thi hành cũng giúp chúng ta hiểu được quy tắc liên quan đến sự dẫn chứng quá thất.
– Về phía nguyên đơn, xin bồi thường, trong phạm vi trách nhiệm dân sự phạm, vì người gây ra tổn hại đã cố ý hoặc vô ý phạm vào nghĩa vụ cẩn mẫn, nguyên đơn phải dẫn chứng được một sự quá thất cố ý hoặc vô ý mà ta đã phân tích nội dung ở trên. Trong địa hạt khế ước, chúng ta đã rõ tại sao phải phân biệt trường hợp nghĩa vụ thành quả hay xác định, với trường hợp nghĩa vụ cấp phương tiện hay nghĩa vụ cẩn mẫn tổng quát. Trong trường hợp nghĩa vụ xác định hay nghĩa vụ thành quả, sự bất thi hành nghĩa vụ đã chứng tỏ sự quá thất của người phụ trái, vì vậy nguyên đơn xin bồi thường không phải dẫn chứng về điểm này nữa. Đối với trường hợp thứ hai, nghĩa vụ cẩn mẫn tổng quá, chúng ta đã rõ, nguyên đơn phải dẫn chứng được rằng sự bất thi hành nghĩa vụ phải do một sự sơ ý hay bất cẩn của người phụ trái, vì trong khế ước, người này không hứa một kết quả nào nhất định.
– Về phía bị đơn, muốn tránh sự bồi thường, có hai giải pháp:
a. Bị đơn có thể dẫn chứng một trường hợp bất khả kháng (cas de force majecure) để tỏ rằng sự tổn hại gây ra cho nguyên đơn là do một nguyên nhân ngoại tại (une cause étrangère: nguyên nhân bên ngoài), chứ không phải do tác động của bị đơn. Khi nghiên cứu về trường hợp bất khả kháng, chúng ta sẽ bàn về những đặc điểm của trường hợp này như sự bất tiên liệu (imprévisibilité: không thể đoán trước được) và bất khả cưỡng (irrésistibilité: sự việc không thể cưỡng lại được).
b. Bị đơn cũng có thể dẫn chứng rằng, tuy sự tổn hại do một tác động của họ, nhưng họ đã không làm một quá thất nào, vì họ ở trong trường hợp phòng vệ chính đáng hay tình trạng khẩn thiết. Phòng vệ chính đáng (légitime défense: tự vệ) là trường hợp bị đơn phải gây ra sự tổn hại ấy để tránh một sự tổn hại mà chính nguyên đơn định thực hiện. Theo án lệ, sự phòng vệ được coi là chính đáng, nếu thỏa mãn hai điều kiện. Sự phòng vệ phải thích ứng với sự khiêu khích. Thí dụ: Một người đi đường, không thể viện dẫn lý do muốn tránh một người đi xe đạp dâm vào họ, mà đẩy người ấy ngã vào dưới bánh xe ô tô đang chạy bên cạnh. Ngoài ra, sự khiêu khích cần phải có tính cách chính đáng. Thí dụ: Một người láng giềng cắt những cành cây mọc sang đất của họ, người chủ cây không thể viện dẫn lý do phòng vệ chính đáng mà đánh người ấy bị thương, vì theo luật, cây cối không thể để mọc sang bất động sản của người khác. Trong trường hợp phòng vệ chính đáng, người gây ra sự tổn hại  không phải dẫn chứng rằng mình ở trong một trường hợp bất khả kháng, mà chỉ cần dẫn chứng rằng, mình đã không làm điều gì quá thất. Tình trạng khẩn thiết (état de nécessité) là trường hợp người ta phải gây ra sự tổn hại để tránh một sự nguy hiểm không do nạn nhân mà có, như một trận bão, một trận lụt chẳng hạn. Theo án lệ, bị đơn không bắt buộc phải dẫn chứng được rằng tình trạng khẩn thiết phải là môt trường hợp bất khả kháng, nghĩa là, phải có hai tính chất bất tiên liệu và bất khả cưỡng. Tuy trong luật pháp cũng như trong án lệ, thường phân biệt quá thất cố ý và quá thất ngoại ý, song cả hai loại này có thể được định nghĩa chung nhu giáo sự A.Mazeaud đề nghị: “Quá thất là một sự lầm lỗi trong sự cư xử mà một người hiểu biết sẽ không làm, nếu như bị lâm vào cùng một trạng huống ngoại tại như bị đơn”. Áp dụng cho các quá thất cố ý, định nghĩa này rất đúng, vì một người biết lẽ phải không bao giờ lại hành động để gây một sự tổn thiệt. Định nghĩa này cũng có thể áp dụng cho các nghĩa vụ do khế ước hay do pháp luật mà phát sinh ra, bất luận là nghĩa vụ thành quả hay nghĩa vụ cấp phương tiện, vì một người hiểu biết lẽ phải chẳng bao giờ lại từ chối mà không thi hành các nghĩa vụ của họ, trừ khi có một nguyên nhân ngoại tại ngăn cản sự thi hành ấy. Định nghĩa trên, ngày nay cũng được án lệ chấp nhận. Với quan niệm mềm dẽo này, các thẩm phán có thể giải quyết các vấn để bồi thường một cách hợp với lẽ công bằng và nhân đạo, không bị gò bó bằng những phương thức quá cứng rắn như lý thuyết rủi ro.
3: VÀI SỰ ÁP DỤNG ĐẶC BIỆT CỦA Ý NIỆM QUÁ THẤT: Phân tích ý niệm quá thất, chúng ta đã rõ đối với trách nhiệm dân sự phạm hay chuẩn dân sự phạm, cũng như đối với trách nhiệm khế ước, chỉ cần có một quá thất, bất luận là quá thất nhỏ hay trọng đại, người gây ra sự tổn hại cũng phải bồi thường. Tuy nhiên, một vài luật gia và một số bản án chủ trương rằng, trong một vài địa hạt đặc biệt, trách nhiệm dân sự chỉ phát động khi nào có một quá thất trọng đại (faute lourde: sai lầm nặng nề) hay một quá thất cố ý (faute intentionnelle: cố ý phạm lỗi). Lần lượt chúng ta xét những trường hợp này:
3.1: Quá thất chuyên nghiệp: Quá thất chuyên nghiệp (la faute professionnelle) là quá thất do một người làm trong khi hành sử nghể nghiệp của mình, như các y bác sĩ, luật sư, giải phẫu thẩm mỹ …Lẽ tất nhiên, những người này trong khi hoạt động nghề nghiệp nếu có làm một điều gì bất cản hay sơ ý gây tổn hại cho khách hàng, họ sẽ phải chịu trách nhiệm và trách nhiệm này là trách nhiệm khế ước, vì giữa họ với khách hàng có một khế ước đã được kết lập. Tuy nhiên, trong án lệ Pháp, chúng ta rõ mãi đến năm 1936, trách nhiệm này mới được thừa nhận là có tính cách khế ước. Từ trước, các y bác sị chỉ chịu trách nhiệm dân sự phạm và chuẩn dân sự phạm. Nhưng cần nhận định rõ rằng, trong các khế ước này, các y bác sĩ, luật sư, chỉ cam kết một nghĩa vụ cẩn mẫn tổng quát. Vì vậy, khác với các trường hợp nghĩa vụ xác định hay thành quả, người khách hàng ở đây phải dẫn chứng được là bị đơn đã phạm một quá thất sơ ý hay bất cẩn. Riêng với sự bất thi hành nghĩa vụ không đủ để phát động trách nhiệm dân sự. Song một số tác giả chủ trương rằng, đối với y sĩ cũng như đối với luật sư, một sự sơ ý hay một sự bất cẩn thường cũng chưa đủ, cần phải dẫn chứng được một sự quá thất trọng đại (une faute lourde: một lỗi nghiêm trọng). Lý thuyết này không đứng vững. Quá thất chuyên nghiệp cũng phải được thẩm lượng như các loại quá thất khác. Nói khác, thẩm phán sẽ tự hỏi một y sĩ hay một luật sư cẩn thận đặt vào trường hợp của bị đơn sẽ cư xử như thế nào. Hơn nữa, trong thực tế, một người khách hàng khi nhờ một y sĩ hay một luật sư trông nom cho mình, tất nhiên là mong muốn những người này sẽ tận tụy giúp cho họ. Họ muốn rằng, y sĩ hay luật sư không phải chịu trách nhiệm vì bất cẩn hay sơ ý. Trong án lệ của Pháp, tuy có một vài bản án đòi hỏi một sự quá thất trọng đại về trách nhiệm của y sĩ, song theo xu hướng chung của án lệ, các y sĩ chịu trách nhiệm mỗi khi mà Tòa án xét rằng một người y sĩ cẩn thận, trong trường hợp tương tự sẽ cư xử khác. Nói tóm lại, một quá thất, mặc dù nhẹ, cũng đủ phát động trách nhiệm đối với các y sĩ. Để quyết định, tòa án có thể nhờ giám định viên làm phúc trình, nhưng nên nhớ rằng, kết luận của tờ phúc trình này chỉ có giá trị chỉ dẫn, không có giá trị bắt buộc đối với tòa án. Trong các loại quá thất chuyên nghiệp, có một vài trường hợp đặc biệt, được trù liệu một vài đặc miễn như trường hợp các luật sư không thể bị kiện về tội phỉ báng trong khi bào chữa hay trường hợp, các thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những quá thất do cố ý hay quá thấy trọng đại trong khi xử án. Hơn nữa, muốn kiện thẩm phán, cũng cần phải áp dụng một thủ tục đặc biệt: thủ tục khiếu tố thẩm phán (la prise à partie). Đối với công chức, nếu một sự tổn hại do một công chức gây ra trong khi thừa hành chức việc, cần phải phân biệt trường hợp quá thất cá nhân (fau personnelle: lỗi cá nhân) và trường hợp quá thất công vụ (faule de service: lỗi dịch vụ). Quá thất cá nhân là trường hợp công chức lạm dụng quyền lực (détournement de pouvoir), nghãi là, đã dùng quyền chức của mình để làm một việc ngoài mục đích đã được luật lệ ấn định. Quá thất công vụ là quá thất của một người công chức đã thừa hành chức vụ của mình đúng theo luật lệ. Trong trường hợp thứ nhất, chỉ riêng người công chức chịu trách nhiệm; trái lại, trong trường hợp thứ hai, nạn nhân muốn được bồi thường tổn hại thì phải kiện nhà nước, người công chức không phải chịu trách nhiệm.
3.2: Trường hợp lạm quyền: Một cá nhân trong khi sử dụng quyền lợi của mình gây một sự tổn hại cho người khác, có phải bồi thường sự tổn hại ấy không? Thí dụ: Một người đã vặn máy truyền tranh khiến láng giềng mất yên tĩnh trong giờ nghĩ; một người thợ đình công khiến người chủ bị thiệt hại; hoặc một người kháng cáo tuy biết trước là mình sẽ thua kiên, nhưng muốn khiến đối phương phải chịu nhiều tổn phí. Những người này thực ra chỉ sử dụng một quyền lợi mà luật pháp đã thừa nhận cho họ. Vấn đề xét xem họ có lạm quyền (abus de droit: lạm dụng quyền) và có phải bồi thường thiệt hại hay không, đã được thảo luận sôi nổi. Lần lượt chúng ta sẽ xét ba vấn đề: 1. Giá trị của thuyết lạm quyền; 2. Tiêu chuẩn của sự lạm quyền; 3. Phạm vi của sự lạm quyền.
1. Giá trị của lý thuyết lạm quyền: Để đánh đổ lý thuyết lạm quyền, một vài luật gia căn cứ vào cổ luật La Mã và nói rằng, theo Luật gia Gaius “Nullius videtur dolo facere qui suo jure utitur” (Không ai phạm tội khi sử dụng quyền của mình), hay theo luật gia Ulpien, “Neminem laedit, nemo damnum facit, qui suo jure utilur” (Người ấy không làm hại ai, không ai làm hại ai, khi người ấy chỉ sử dụng và bảo vệ quyền lợi của mình). Các luật gia La Mã thừa nhận rằng, người sử dụng quyền lợi không được có ý làm hại người khác (malitiis non est indulgendum: không được phép chiều theo sự ác ý). Gần đây, giáo sư Planiol cũng chủ trương rằng không thể có sự lạm quyền vì “khi nào bắt đầu có sự lạm quyền thì không còn quyền nữa; và không thể có một sự lạm dụng một quyền lợi nào … vì lẽ không thể chối cãi một hành vi không thể vừa hợp pháp, vừa trái pháp luật“. Tuy nhiên, giáo sư Planiol trong sự suy luận này đã lầm lẫn hai ý niệm khách quan pháp (droit objectif: quyền khách quan) và quyền lợi chủ quan (droit subjectif: quyền chủ quan). Khi một người vặn máy truyền thanh to tiếng, khiếng làng giền mất yên tĩnh, hành vi này hợp với quyền lợi chủ quan là quyền sở hữu  của người ấy, nhưng trái với khách quan pháp, nghĩa là trái với toàn thể luật lệ quy định sự giao thiệp giữa các tư nhân trong xã hội. Vì vậy, theo giáo sư Josserand, nếu ta không thể nói được có một sự lạm pháp (abus du droit: lạm dụng pháp luật), nghĩa là, một sự lạm dụng pháp luật, ta rất có thể nói được có sự lạm quyền (abus d’un droit: lạm dụng quyền). Vì chính giáo sư Planiol cũng công nhận rằng, khi một người hành sử quyền lợi của mình với ý chí gây hại cho người khác, thì người ấy phải bồi thường, vì người đó phải hành động trái với pháp luật. Như vậy, tựu trung giáo sư Planiol cũng công nhận có sự lạm quyền, nhưng đã dùng những danh từ khác. Trong dân luật Pháp, thuyết lạm quyền đã được các luật gia 
Raymond SaleillesLouis Josserand nghiên cứu rất kỹ và đưa ra nhiều tiêu chuẩn.
2. Tiêu chuẩn của sự lạm quyền. Có hai tiêu chuẩn: Tiêu chuẩn hẹp, có sự lạm quyền nếu như người hành sử quyền đó có ý chí gây hại (intention de nuire: có ý làm hại). Nói cách khác, trách nhiệm dân sự vì lạm quyền chỉ phát động khi nào có một sự quá thất cố ý. Lẽ dĩ nhiên, trong những trường hợp này, người gây ra tổn hại phải bồi thường không thể chối cãi được. Trong trường hợp, mặc dù sử dụng quyền lợi của mình không có ý làm hại, cũng đã gây một sự tổn hại cho người khác, ta có thể nói được rằng, cũng có một sự lạm quyền không? Theo tiêu chuẩn rộng, sự lạm quyền bao gồm cả trường hợp này, nhưng cần phải hoạch định tiêu chuẩn này cho rõ rệt hơn. Giáo sư Louis Josserand chủ trương rằng, cần phải xét tới cứu cánh xã hội của quyền lợi chủ quan. Mỗi quyền lợi sở dĩ được luật pháp công nhận không phải chỉ vì lợi ích riêng cho cá nhân chủ thể quyền lợi ấy, mà còn vì mục đích xã hội nữa (une finalité sociale: một mục đích xã hội). Nếu chủ thể quyền lợi đã sử dụng quyền lợi trái với mục đích xã hội này, tất nhiên có sự lạm quyền. Nếu ta so sánh dân luật với các nước Âu-Mỹ, ta sẽ nhận thấy tiêu chuẩn này cũng được chấp nhận trong bản dự thảo bộ luật nghĩa vụ Pháp-Ý, điều 74. Trong bộ dân luật Nga-Sô, điều thứ nhất cũng đặt ngay nguyên tắc hạn chế các quyền lợi chủ quan bằng mục đích xã hội: “Các quyền lợi dân sự được luật pháp bảo vệ trừ trường hợp hành sử các quyền lợi này trái với dụng đích kinh tế và xã hội”. Tiêu chuẩn xã hội nói trên tuy có tính cách hấp dẫn, nhưng cũng có phần nguy hiểm, vì thẩm phán trong khi bắt buộc phải tìm kiếm mục đích xã hội để hoạch định nội dung quyền lợi, rất có thể bị lôi cuốn từ địa hạt pháp lý sang địa hạt chính trị. Có lẽ vì vậy, bộ dân luật của Đức (Điều 226) chỉ thừa nhận trường hợp lạm quyền khi nào đương sự hành sử quyền lợi của mình với ý chí làm hại người khác. Đối với dân luật Pháp, tuy không có điều khoản nào trong luật giải quyết minh thị vấn đề này, song án lệ chấp nhận một giải pháp trung dung. Trước hết, khi có ý chí làm hại trong sự hành sử quyền lợi, án lệ của Pháp coi là có sự lạm quyền. Ngoài ra, nếu đương sự không có ích lợi gì mà hành sử quyền lợi để gây tổn hại cho người khác, thì án lệ cũng công nhận là có sự lạm quyền. Song nếu đương sự có ích lợi mà hành sử như vậy, án lệ đã có giải thích nào? Tòa án cũng công nhận có sự lạm quyền, nếu nhận thấy có một quá thất trong sự hành sử. Thí dụ: Quyền đơn phương hủy bỏ khế ước lao động, trên nguyên tắc, được luật pháp công nhận, và cũng có ích cho người chủ; song nếu Tòa án xét rằng, một chủ nhân khác đặt vào địa vị của người chủ sẽ hành động khác, thì người này sẽ bị tòa phạt phải bồi thường vì đã lạm quyền hủy khế ước. Nói tóm lại, trong dân luật của Pháp, vấn đề lạm quyền không phải là một ngoại lệ đối với các nguyên tắc căn bản của trách nhiệm dân sự. Mặc dù, sự hành sử quyền lợi được luật pháp công nhận, người chủ thể quyền lợi vẫn phải chịu trách nhiệm nếu làm một việc quá thất. Trong thực tế, lý thuyết lạm quyền rất có ích vì các thẩm phán có thể kiểm soát được sự hành sử các quyền lợi chủ quan một cách có hiệu quả mà vẫn không mang tiếng là bị chủ nghĩa xã hội hay chính trị lôi cuốn.
3. Phạm vi của lý thuyết lạm quyền: Trên nguyên tắc, tất cả các quyền lợi chủ quan có thể bị lạm dụng. Nói khác đi, những quyền lợi này có tính cách tương đối và chịu sự kiểm soát của tòa án. Tuy nhiên, có một số quyền lợi thường gọi là quyền chuyên quyết (droit discrétionnaire: quyền tùy ý), hay quyền tuyệt đối (droit absolu: chắc chắn đúng), sẽ không bị tòa án kiểm soát. Song những quyền lợi này rất ít và thường thuộc về luật gia đình, như quyền của cha mẹ ưng thuận cho các con lập hôn thú, quyền trả lời trong địa hạt báo chí. Ngoài những trừ lệ hãn hữu nói trên, án lệ đã áp dụng lý thuyết lạm quyền trong tất cả các địa hạt khác, thí dụ:
a. Đối với quyền sở hữu: Nếu chủ sở hữu hành sử quyền lợi của mình, khiến cho các lân bang bị khấy rối, tòa án sẽ công nhận có sự lạm quyền: như trường hợp một xưởng kỹ nghệ phun khói sang nhà hàng xóm.
b. Đối với khế ước lao động: nếu thời hạn không được chỉ định, các người kết ước có quyền đơn phương hủy bỏ khế ước ấy. Nhưng nếu sự hủy bỏ không căn cứ vào một lý do chính đáng thì cũng có sự lạm dụng mà người hủy phải bồi thường sự tổn hại cho đối phương;
c. Đối với quyền đình công: Nếu người thợ đình công trước khi báo cho chủ biết những yêu sách của mình thì cũng bị coi là lạm dụng.
d. Đối với các phương cách kháng tố: Cũng có thể bị lạm dụng, nhưng án lệ Pháp tiêu chuẩn không nhất định. Trong khi phòng dân sự của tòa phá án Pháp đòi hỏi sự cố ý làm hại hay một quá thất trọng đại mới thừa nhận sự lạm dụng, thì phòng hình sự tòa phá án chấp nhận một tiêu chuẩn rộng rãi hơn, và coi rằng một đơn khởi tố quá bạo, không căn cứ vào những lý do vững chắc, có thể gây nên một trường hợp lạm dụng quyền lợi. Song sự sai biệt này cũng không lấy gì làm lạ. Về phương diện dân sự, tiêu chuẩn phải khó khăn hơn để khỏi phải xâm phạm vào quyền kháng cáo của mọi người. Trái lại, về hình sự, các vụ kiện có thể có ảnh hưởng tai hại đến người bị kiện về phương diện danh giá và hình phạt, cho nên sự lạm dụng quyền lợi kháng tố được tòa án về hình sự xét một cách tổng quát.
3.3: Quá thất bất hành động: Một sự tổn hại có thể bị gây ra do một sự hành động hoặc một sự bất hành động. Vấn đề được đặt ra là cần xet xem khi một đương sự gây một sự tổn hại vì không hành động, họ có phải bồi thường không? Vấn đề này được thảo luận sôi nổi trong học lý. Khi một cá nhân, vì hành động của mình, gây sự tổn thiệt cho người khác, sự hành động đó có thể có tính cách quá thất và vì vậy đương sự phải bồi thường. Nhưng trái lại, trong trường hợp họ không hành động, làm thế nào mà ta quy trách nhiệm được cho họ quá thất? Vì vậy, trong án lệ của Pháp, cho tới năm 1945, về phương diện dân sự, các tòa án vẫn do dự không bắt bồi thường vì bất hành động. Sắc lệnh ngày 25-6-1945 của Pháp, cải bổ điều 63 bộ hình luật, quy định rằng, những người nào bất hành động và không cấp cứu những người đang ở trong tình trạng nguy hiểm sẽ phải chịu hình phạt tiểu hình, nếu như sự cấp cứu đó không gây sự tổn hại gì cho họ hay cho thân nhân của họ. Từ năm 1945, án lệ dân sự của Pháp cũng coi sự bất hành động là một quá thất khi sự bất hành động này vi phạm vào một nghĩa vụ phải làm. Muốn biết khi nào có một nghĩa vụ phải thỏa mãn, thẩm phán sẽ xem một người cẩn mẫn trong trường hợp tương tự sẽ hành động như thế nào. Đối với dân luật của ta, mặc dù hiện thời không có điều khoản nào giống điều 63 hình luật của Pháp, thiết nghĩ vấn đề quá thất do bất hành động cũng có thể giải quyết được theo những nguyên tắc thông thường về trách nhiệm dân sự. Sự thật, có thể phân biệt được hai hình thức bất hành động. Hình thức thứ nhất là sự bất hành động trong phạm vi hoạt động của đương sự, ví dụ: đương sự lái xe hơi ban đêm nhưng quên không bật đèn. Lẽ dĩ nhiên, hình thức này nằm trong phạm vi những sơ ý và bất cẩn; nếu xảy ra tai nạn, đương sự sẽ phải bồi thường như thường lệ. Hình thức thứ hai là sự bất hành động đơn thuần, nghĩa là, sự bất hành động không liên hệ đến hoạt động nào của đương sự. Thí dụ: Người ta trách đương sự đi qua đám cháy mà không dập lửa. Trong trường hợp này, muốn biết đương sự có phải chịu trách nhiệm hay không, cũng chỉ cần tìm xem đương sự có quá thất hay không. Áp dụng nguyên tắc thông thường, người ta sẽ hỏi một người cẩn mẫn đặt vào trong trường hợp đó sẽ hành động như thế nào. Trong thực tế, thí dụ sau này sẽ cho ta biết rõ là sự bất hành động cũng có thể là một quá thất: một người chết đuối, ông Giáp đi thuyền qua đấy. Nếu bảo rằng ông Giáp chỉ chịu trách nhiệm vì đã rẽ thuyền đi ngã khác, và không chịu trách nhiệm, nếu cứ đứng yên một chỗ để lãnh đạm trông người kia chết đuối, thì sự suy luận kia rất không hợp lý! Vì vậy, trong cổ luật của Pháp, Luật gia Loisel đã viết rất hữu lý rằng: “Qui peut et n’empéche, péche” (Ai có thể làm được mà không ngăn cản thì cũng phạm tội). Nói tóm lại, vấn đề quá thất bất hành động có thể giải quyết đươc trên căn bản của những nguyên tắc thông thường về trách nhiệm dân sự. Khi nào sự bất hành động là một sự quá thất, thì trách nhiệm dân sự sẽ phát động mà không cần phải xét xem quá thất ấy có là một tội phạm đã được quy định trong hình luật hay không, vì nguyên tắc “nulla poena sine lege” (Không có hình phạt nào mà không có luật pháp), chỉ áp dụng trong hình luật mà thôi.
3.4: Trường hợp tuân hành luật lệ hay tục lệ:
Trong vài trường hợp, người gây ra tổn hại đã nhất thiết tuân hành những điều kiện được quy định ở trong luật pháp, trong giấy phép do cơ quan hành chính cấp, hay theo tục lệ hoặc nội quy của các cơ quan thể thao. Họ có chịu trách nhiệm và phải bồi thường về sự tổn hại nói trên không? Thí dụ: Một tiểu ban tổ chức một cuộc thể thao, đã tôn trọng tất cả các điều kiện về sự tổ chức được ghi trong giấy phép, do cơ quan hành chính cấp. Tuy nhiên, một tai nạn đã xảy ra cho một khán giả. Hoặc giả như môn thể thao nguy hiểm như đấu võ, các nhà thể thao đã tôn trọng tất cả những thể lệ do tổng cục thể thao ấn định, song một tai nạn xảy đến cho một người trong bọn họ … Trong tất cả những trường hợp này, có thể nói rằng, sự tuân hành luật pháp hay các nội quy đã đặt các đương sự ra ngoài vòng trách nhiệm không? Đây không phải là một vấn đề đặc biệt. Vấn đề này cũng phải giải quyết theo nguyên tắc căn bản về trách nhiệm dân sự. Nói cách khác, cần phải xem xét người đã gây ra tổn hại có làm một quá thất nào không? Phải so sánh hành động của họ với sự cư xử của một người cẩn mẫn được đặt trong những trường hợp tương tự. Mặc dù trong luật pháp, trong giấy phép hoặc trong nội quy, đã quy định một số điều kiện, nhưng sự quy định này không có tính cách hạn chế. Ngoài sự quy định này, đương sự còn phải tôn trọng nghĩa vụ cẩn mẫn tổng quát, nghĩa là, đương sự còn có nghĩa vụ phải trù tính tất cả những biện pháp để khỏi gây ra sự tổn hại cho người khác.
3.5: Trường hợp bảo tồn đồ vật: Trong rất nhiều khế ước, một bên kết ước thường cam kết nghĩa vụ phải bảo tồn và giao một đồ vật xác định như trường hợp người thụ thác (le dépositaire: kho lưu trữ), người tá dụng (le commodataire: người mượn đồ để dùng), người thuê (le locataire: người thuê nhà), hay người bán đồ (le vendeur: người bán). Nếu đồ vật ấy không được bảo tồn cẩn thận hay không được giao đúng hạn, trách nhiệm dân sự sẽ phải thẩm lượng như thế nào? Vấn đề này rất phức tạp, vì trong các bộ dân luật hiện hàng, có rất nhiều điều khoản nói tới những nghĩa vụ ấy. Sự thật, ta phải phân biệt hai loại nghĩa vụ: 1. Nghĩa vụ bảo tồn đồ vật; 2. Nghĩa vụ giao đồ vật.
a. Nghĩa vụ bảo tồn đồ vật: Đối với nghĩa vụ này, điều 1137 DLP, 677 DLB và 718 DLT đã dự định một nghĩa vụ tổng quát: “Người giữ đồ có nghĩa vụ phải trông coi đồ vật như một người quản lý chu đáo (bon administrateur: quản trị viên giỏi) hay như một người lương phụ (bon père de famille: Người đàn ông tốt của gia đình). Nói khác, họ bị một nghĩa vụ cẩn mẫn tổng quát ràng buộc, nghĩa là nếu họ làm điều gì sơ ý hoặc bất cẩn khiến đồ vật chịu tổn thất thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm. Riêng đối với đồ vật cho không, thì chỉ cần phải giữ gìn như đồ vật riêng của mình mà thôi (677 khoản 2 DLB, 718  KHOẢN 2 DLT). Ngoài nguyên tắc tổng quát được quy định ở trên, còn nhiều điều khoản riêng biệt cho một vài loại khế ước. Đối với sự ký thác, người phụ thác, phải trông coi đồ vật được ký thác như là của riêng nếu sự ký thác có tính cách vô thường (dépôt gratuit: gửi giữ miễn phí) (điều 1927 DLP, 1141 DLB, 1334 DLT). Trái lại, họ phải trông coi những đồ vật đó như là một người lương phụ hay một người quản lý chu đáo, nếu sự ký thác đó có lợi cho họ (1928 DLP, 1141 DLB, 1334 DLT). Trong khế ước tá dụng (le commondat), người tá dụng mượn đồ để dùng không mất tiền. Theo Điều 1880 DLP, 1100 DLB, 1283 DLT, người tá dụng phải trông coi đồ vật như một người lương phụ hay một người quản lý chu đáo. Nhưng những điều khoản này chỉ có tính cách bổ sung; vì vậy, các người kết ước có thể quy định minh thị trong khế ước tá dụng một trách nhiệm nặng hơn hay là nhẹ hơn. Đối với sự cho thuê đồ vật (louage de chose), trong dân luật Pháp, nguyên tắc chung, bắt buộc người thuê đồ phải trông coi đồ vật như một người lương phụ cũng được áp dụng (1726 và 1806 DLP). Tuy nhiên, đối với các bất động sản, dân luật Pháp đã chấp nhận một quy tắc khác. Trong trường hợp bất động sản bị tổn hại, người chủ cho thuê không cần phải dẫn chứng là người thuê đã làm một quá thất; trái lại, người thuê muốn khỏi phải chịu trách nhiệm thì phải dẫn chứng được là sự tổn hại đó không do sự quá thất của mình gây nên. Trong hai bộ dân luật Bắc và Trung, sự quy định chặt chẽ hơn. Đối với các bất động sản (1012 DLB, 1161 DLT) cũng như đối với các động sản (1048, 1049 DLB; 1212, 1213 DLT), người thuê muốn khỏi chịu trách nhiệm đều phải dẫn chứng là không làm điều gì quá thất để gây ra sự tổn hại. Riêng đối với những bất động sản, nếu xảy ra một vụ cháy, sự quy định của luật pháp còn nghiêm khắc hơn nữa. Điều 1733 DLP, điều 1013 DLB và 1162 DLT, quy định rằng, người thuê phải chịu trách nhiệm về vụ cháy, trừ khi dẫn chứng được rằng vụ cháy đó do một trường hợp bất khả kháng, một sự hà tì kiến trúc hay do một nhà bên cạnh dẫn sang, nghĩa là, phải dẫn chứng được một nguyên nhân ngoại tại của tai nạn. Vì vậy, trong trường hợp này, nếu người thuê chỉ chứng tỏ rằng mình không làm điều gì quá thất, cũng chưa đủ để tránh khỏi bồi tổn. sở dĩ, trong bộ dân luật Pháp, điều 1733 đã quy định một quy tắc chặt chẽ như vậy đối với người thuê nhà là vì, vào đầu thế kỷ 19, những sự rủi ro cháy nhà thường xảy ra luôn, và các vụ cháy nhà, hầu hết là do ở lỗi của người thuê nhà. Song ngày nay, tình trạng này đã đổi khác; các sự rủi ro cháy nhà cũng đã giảm bớt, nhất là công cuộc cứu hỏa cũng chu tất hơn trước. Một mặt khác, một số đám cháy cũng không phải do ở lỗi người thuê, mà có thể do giây điện chập vào nhau. Rất tiếc là hai bộ dân luật Bắc và Trung, khi bắt chước điều 1733 DLP, đã không chú ý đến tình trạng xã hội mới này, khiến trách nhiệm của người thuê nhà rất nặng nề khi nhà bị cháy. Trong dự án canh cải bộ Dân luật Pháp, quy tắc của điều 1733 đã được sửa đổi. Người thuê có thể dẫn chứng rằng không làm điều gì quá thất để khỏi phải trách nhiệm về vụ cháy, và không cần phải dẫn chứng một nguyên nhân ngoại tại. Về phương diện này, ở Pháp, đối với các sự cho thuê các trang trại, nhà lập pháp đã tỏ ra rất khoan đại với người thuê. Theo Điều 41 dụ 17-10-1945, người thuê các trang trại (le fermier) chỉ chịu trách nhiệm đối với chủ về các vụ cháy, nếu như người chủ có thể dẫn chứng rằng người thuê đã làm một quá thất trọng đại (une faute lourde: một lỗi nghiêm trọng). Qui định như vậy là nhà làm luật đã dành cho người thuê một sự ưu đãi đặc biệt vì những trường hợp mà người chủ có thể dẫn chứng được một quá thất trọng đại của người thuê thật là hiếm trong thực tế. Tất cả những sự cải cách này đều nằm trong khuôn khổ các sự canh cải có tính cách xã hội nhằm biệt đãi các người đi thuê nhà hay ruộng đất. Mong rằng quan niệm mới này sẽ được chấp nhận trong bộ dân luật tương lai của ta.
b. Nghĩa vụ giao đồ vật: Ngoài nghĩa vụ bảo tồn đồ vật, người kết ước còn có nghĩa vụ phải giao đồ vật đúng hạn định. Trái với nghĩa vụ bảo tồn, nghĩa vụ này là nghĩa vụ xác định hay nghĩa vụ thành quả. Nếu đến hạn, họ không giao được đồ, họ sẽ phải chịu trách nhiệm, trừ phi họ dẫn chứng được rằng, sự bất thi hành nghĩa vụ này đã do một nguyên nhân ngoại tại gây nên, như trường hợp bất khả kháng. Vì vậy, khi đòi bồi thường, người trái chủ không cần phải dẫn chứng quá thất của người phụ trái. Nói tóm lại, trường hợp bảo tồn và giao hoàn đồ vật cũng không có gì khác biệt. Các vền đề liên hệ đến trách nhiệm dân sự đều có thể giải quyết theo những nguyên tắc thông thường.

KẾT LUẬN I: Có thể nói rằng, trong phạm vi trách nhiệm do tác động của bản thân, nghĩa vụ bồi thường chỉ phát sinh, nếu người gây ra sự tổn hại đã làm một điều quá thất, bất luận là có cố ý hay không. Tuy lý thuyết rủi ro chủ trương rằng, mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về tất cả các hậu quả của những hành động của mình trong xã hội, nhưng lý thuyết này không được luật pháp và án lệ chấp nhận, trừ một số trường hợp được nhà làm luật quy định minh thị trong những phạm vi hạn định. Căn bản của trách nhiệm dân sự phải là quá thất. Một quá thất dù nhỏ nhặt đến đâu, cũng đủ để phát động một trách nhiệm dân sự và có hậu quả bắt người gây ra sự thiệt hại phải bồi thường. Những trường hợp quá thất chuyên nghiệp, lạm quyền, tuân hành pháp luật v.v… cũng không phải là những trường hợp ngoại lệ đối với nguyên tắc trên. Tất cả các điểm tế nhị liên quan đến sự bồi thường tổn thiệt trong các trường trên đều có thể giải quyết một cách mỹ mãn và phù hợp với các nguyên tắc căn bản về trách nhiệm dân sự./.

 

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Nam Lua

Nam Lua

Bình luận

avatar