Tháng 10 năm 1966, Denis Healey bật cười lớn khi Keng Swee và tôi yêu cầu ông ta bán cho chúng tôi đội máy bay chiến đấu Hawker Hunter. Ông ta phất tay và bảo chúng tôi cần gì phải làm như thế, lực lượng Anh Quốc sẽ bảo vệ chúng tôi. Chúng tôi rời khỏi London, yên tâm rằng Không lực Hoàng gia (Royal Air Force – RAF) sẽ ở lại Singapore.
Chúng tôi rất cần nhân tố lòng tin mà quân đội Anh đã tạo ra. Nếu họ đột nhiên rời khỏi trước khi chúng tôi có đủ khả năng phòng vệ thì tôi không nghĩ rằng chúng tôi có thể tồn tại. Sự hiện diện của họ tạo cho người dân cảm giác an toàn, không có điều đó chúng tôi sẽ không nhận được sự đầu tư cũng như không có khả năng xuất khẩu hàng hoá và mậu dịch. Đó là cách duy nhất mà chúng tôi có thể tạo đủ công ăn việc làm cho các sinh viên mới ra trường và ngăn chặn tình trạng thất nghiệp hàng loạt. Tháng Giêng năm đó, tôi đã gặp thủ tướng Anh, Harold Wilson tại cuộc hội nghị khẩn các thủ tướng thuộc Khối Thịnh vượng chung ở Lagos về vấn đề đơn phương tuyên bố độc lập của Rhodesia. Giữa buổi họp, chúng tôi thảo luận về tương lai của lực lượng Anh Quốc tại Singapore. Thủ tướng bảo tôi rằng ông ta dự định rút 25.000 trong số 50.000 quân đang bảo vệ tại Malaysia. Mặc dù thủ tướng nói ông vẫn chưa quyết định, nhưng tôi đoán rằng ông sẽ cắt giảm lực lượng quân đội.
Tháng 4 năm 1966, để thăm dò ý định của Anh, tôi đã đến London để thảo luận về kế hoạch quốc phòng của họ. Điều trở ngại là nhóm người vận động ủng hộ cuộc rút quân khỏi đông Suez ngày càng trở nên đông hơn ở cả hai đảng Lao Động và đảng Bảo Thủ và cả trong các cây bút và giới bình luận hàng đầu của họ. Healey (theo báo chí Anh tường thuật) phát biểu rằng trong nội các chính phủ, George Brown, người đứng thứ hai sau Wilson, đang dẫn đầu một nhóm người ủng hộ mạnh mẽ cuộc rút quân nhanh chóng. Quan điểm này dễ dàng chiếm được sự ủng hộ từ phía đảng Lao Động và các nghị sĩ của đảng Lao Động. Iain MacLeod, cựu bộ trưởng đảng Bảo Thủ và hiện nay là Bộ trưởng Kinh tế – tài chính lập sẵn (Các đảng đối lập mạnh thường lập sẵn một chính phủ với đầy đủ các bộ để chờ cầm quyền thì có ngay một nội các. Việc làm này còn nhằm mục đích tranh cử (ND).) của phe đối lập, cho tôi biết có rất nhiều người “châu Âu” (những người theo khuynh hướng hợp nhất với châu Âu) trong đảng của ông ta ủng hộ cuộc rút quân này.
Tôi cảm thấy Wilson đang tận lực duy trì quân đội Anh ở lại Singapore và Malaysia tối thiểu là trong nhiệm kỳ này và ắt hẳn phải có một điều kiện trao đổi từ phía người Mỹ. Các đại sứ thân hữu bảo tôi rằng Mỹ đang giúp Anh ủng hộ giá trị của đồng bảng Anh với điều kiện nước Anh phải tiếp tục duy trì sự hiện diện của họ tại đông Suez. Hoa Kỳ có những lý do riêng để muốn Anh ở lại. Tháng Giêng năm 1966, quân lực Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam đã lên đến con số 150.000, và Không lực Hoa Kỳ đang ném bom vào các mục tiêu trọng điểm tại miền Bắc Việt Nam. Sau đó George Brown khẳng định với tôi rằng “quid” chính là sự ủng hộ của Mỹ đối với đồng bảng Anh mà khi đó đang được định giá quá cao và đang ở trong tình trạng chịu sức ép.
Denis Healey, Bộ trưởng Quốc phòng, là người lãnh đạo quan trọng nhất mà tôi phải gặp sau Wilson. Cá nhân tôi rất thích ông ta. Ông là một trí thức có năng lực, giống như một cái máy vi tính luôn đề ra những giải pháp mới khi có nhiều dữ liệu hơn được đưa vào. Sự mềm dẻo và tính cách hoạt bát dễ làm ông trở thành người bạn tương đắc trong bữa ăn tối với nhiều câu chuyện hữu ích và thú vị về những người tôi muốn biết. Song ông có thể pha giọng châm biếm khi đánh giá người khác. Một lần, khi nói về một thủ tướng trong Khối Thịnh vượng chung, chỉ vào hai bên thái dương, ông nói “ông ta chỉ toàn gỗ từ đây sang đây”.
Qua ông ta, tôi có một bản tóm tắt tốt về quan điểm của các bộ trưởng của đảng Lao Động. Healey tin rằng mặc dù có khả năng nhưng sẽ rất khó khăn cho Chính phủ Anh để duy trì quân đội Anh tại Viễn Đông trong những năm 1970. Trong nội các, hầu hết các bộ trưởng đều tán thành việc rút quân trong vòng năm năm tới; duy chỉ có Harold Wilson, Michael Stewart và bản thân Healey – “một sự kết hợp ghê gớm” – vẫn kiên nhẫn duy trì quân lực Anh tại đông Suez trong thập niên tới. Tôi đoan chắc điều đó khi tôi gặp Michael Stewart, Bộ trưởng Ngoại giao, và nhận ra ông ta là một con người kiên định đáng tin cậy.
Healey cho rằng có một loạt ý kiến mạnh mẽ từ phía đảng Lao Động muốn lực lượng Anh rút hoàn toàn khỏi các hiệp ước với nước ngoài, tin rằng các lực lượng này tại Viễn Đông thực tế ít đảm nhiệm vai trò một công cụ gìn giữ hòa bình và ổn định, mà chỉ là một thứ công cụ để răn đe trong các tranh cãi giữa các chính phủ trong khu vực. Healey cảnh báo chính sách quân sự của Anh tại Viễn Đông có thể thay đổi nhiều trong nhiệm kỳ chính quyền đương nhiệm. Sự không rõ ràng trong việc quyết định thời gian ở lại của quân đội Anh đã không ngừng tạo ra lo lắng. Keng Swee và tôi thống nhất với nhau là dù cuối cùng nước Anh quyết định như thế nào, chúng tôi vẫn phải xây dựng khả năng phòng thủ càng sớm càng tốt để chứng tỏ với nhân dân và thế giới biết rằng chúng tôi không phải là không có khả năng tự bảo vệ.
Thứ Hai, ngày 25 tháng 4, trước ngày tôi rời khỏi London, tôi có một cuộc gặp cuối cùng với Harold Wilson. Ông ta hỏi tôi về sự đóng góp của các căn cứ Anh đối với nền kinh tế Singapore. Tôi đánh giá nó chiếm khoảng 20% tổng thu nhập quốc dân. Sự cắt giảm dần các căn cứ này sẽ khiến một số lượng đáng kể người Mã Lai và Ấn phải trở về nước. Điều này sẽ tạo sự bất ổn cho nền kinh tế, nhưng điều tôi e ngại nhất chính là sự tác động đối với tinh thần nhân dân. Phải nỗ lực rất lớn mới có thể thuyết phục người dân tin rằng chủ nghĩa cộng sản không phải là một trào lưu tất yếu của tương lai. Sự rút lui của quân đội Anh và việc đóng cửa các căn cứ sẽ dẫn đến sự xói mòn tinh thần nghiêm trọng. Người ta không thể tránh khỏi phải chấp nhận sức mạnh của Trung Quốc.
Tôi kết luận rằng Wilson và chính quyền của ông không thể giúp gì nhiều cho Singapore trong việc dàn xếp các hiệp ước phòng thủ và kinh tế với Malaysia. Sức ảnh hưởng của người Anh đã suy yếu, đặc biệt là khi cuộc “Xung đột đối đầu” với Indonesia đã lắng dịu. Chuyến đi lần này tốt đẹp như tôi hy vọng. Những người đứng đầu nước Anh, đặc biệt là Wilson và Healey, nhấn mạnh rằng họ thật sự sửng sốt vì sự chia tách này, và lẽ ra chúng tôi không nên thực hiện một bước đi quá mạnh mẽ như vậy mà không có sự cố vấn của họ nhất là vào lúc họ đang bảo vệ chúng tôi trước cuộc xung đột với Indonesia. Hiện có rất nhiều người quan tâm đến việc họ có nên ở lại Đông Nam Á hay không. Họ nhấn mạnh điều đó để cho thấy tính nghiêm trọng của tình hình. Trong tương lai gần, Singapore sẽ có những người bạn trong chính quyền của đảng Lao Động và cả trong ban lãnh đạo của đảng Bảo Thủ đối lập. Tôi hy vọng điều này sẽ cho chúng tôi thời gian một vài năm để xây dựng lực lượng quốc phòng, khôi phục nền kinh tế, giao thương lại với Indonesia và quan trọng hơn hết là đầu tư phát triển công nghiệp.
Wilson tỏ ra thân thiện trong suốt thời gian tôi lưu tại London vào tháng Tư năm đó. Ông ta mời tôi ăn trưa tại số 10 đường Downing cùng với các bộ trưởng chủ chốt trong nội các và lãnh đạo phe đối lập Thượng viện Anh, Peter Carrington, các phu nhân của họ cũng có mặt. Trong một bài ứng khẩu, Peter Carrington đã phát biểu những lời nồng nhiệt nhất. Đáp lại, tôi cám ơn tình hữu nghị và sự ủng hộ mà ông ta dành cho tôi.
Chẳng bao lâu sau khi tôi rời khỏi London, Wilson phải đối đầu với áp lực từ phía đảng Lao Động yêu cầu ông rút giảm quân lực theo các cam kết về phòng thủ với nước ngoài. Tháng Sáu năm 1966, tại cuộc họp với các nghị sĩ của đảng Lao Động, Wilson đã phải khơi dậy tình cảm xã hội của họ:
Nói một cách thẳng thắn, nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình, chúng tôi vui lòng rời khỏi Singapore càng sớm càng tốt. Tuy nhiên chúng ta không thể nói, như chúng ta đã làm tại Aden, rằng chính phủ và nhân dân địa phương không cần đến chúng ta. Lý Quang Diệu, một thành viên đảng Xã hội Dân chủ thuộc phe cánh tả đáng tin cậy như bất cứ ai đang hiện diện trong căn phòng này, chắc chắn mong muốn chúng ta ở lại Singapore. Chúng ta hãy nhớ trên mặt trận chính trị tại Đông Nam Á và trong cuộc tranh cử, Lý Quang Diệu đã bộc lộ sự can đảm phi thường trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản trong khu vực cộng sản muốn giành quyền kiểm soát.
Chính phủ Singapore, như chúng ta đã biết, là chính phủ xã hội dân chủ duy nhất theo đúng nghĩa tại Đông Nam Á.
Những thành tích xã hội của ông ta, chẳng hạn như chương trình nhà ở, thách thức bất kỳ thành tích nào trong các cộng đồng dân chủ xã hội tiến bộ nhất.
Sau chuyến đi London, tôi đã tham dự hội nghị quốc tế xã hội chủ nghĩa tại Stockholm để tiếp xúc với các lãnh tụ đảng Xã Hội Anh và châu Âu. Tại đây, tôi được gặp George Brown sau bữa ăn trưa. Bằng giọng thành thực và thẳng thừng; ông ta nói muốn rút quân khỏi Đông Nam Á càng sớm càng tốt. Ông ta thừa nhận ý kiến mình thuộc thiểu số, nhưng ông sẽ kiên trì giữ chính kiến của mình. Brown nói Wilson và Healey có tình cảm ưu ái đối với tôi và chính phủ Singapore, nhưng ông chán ngấy chuyện điều này là lý do biện hộ cho chính sách của Anh tại đông Suez. Ông ta muốn có lời tuyên bố rút quân chính thức trong một cuộc duyệt lại chính sách quốc phòng được công bố vào tháng 10 năm 1965, tuy nhiên ông ta chỉ là thiểu số. Tôi phân tích rằng nếu Anh rút quân, Hoa Kỳ sẽ không hậu thuẫn cho đồng bảng Anh. Đồng bảng Anh sụt giá và đảng Lao Động sẽ thất bại trong cuộc bầu cử lần thứ hai. Brown khẽ bực giọng rằng thoả ước giữa Lyndon Johnson và Harold Wilson kết cuộc sẽ chẳng đem lại lợi lộc gì cho nước Anh.
Tháng 7 năm 1966, Healey viếng thăm Singapore và bảo tôi rằng quân lực Anh tại Singapore và Malaysia sẽ bị cắt giảm xuống mức lẽ ra đã được thực hiện nếu như không xảy ra xung đột. Ông ta đã đến Kuala Lumpur. Với vẻ thẳng thắn, Healey nói ông đã tuyên bố với báo chí rằng không hề có sự chống đối nước Anh tại đây và không có lý do nào khác ngoài những khó khăn hiện tại của nền kinh tế Anh đã ngăn viện trợ cho Malaysia. Ông ta nháy mắt và nói người Malay- sia biết rằng những gì mà ông gọi là “Tháng ghét nước Anh” của họ đã gây ấn tượng xấu và phản tác dụng. Các lãnh tụ Malaysia phản ứng giận dữ trước sự chỉ trích của giới truyền thông Anh đối với chính sách ngôn ngữ và sắc tộc của họ và mối quan hệ giữa họ với người Anh trở nên xấu đi. Cho đến thời điểm Healey đến Malaysia, nó đã trở thành “Tháng yêu nước Anh”.
Healey vui vẻ, đầy thân thiện và vững vàng. Có nhiều lúc tôi cảm thấy rằng Anh sẽ có thể ở lại trong một thập niên, những năm 1970. Nhưng lúc khác, tôi lại sợ rằng thời gian không còn nhiều cho Wilson và Healey. Trên tinh thần chung, nghị sĩ đảng Lao Động Anh ủng hộ mạnh mẽ việc cắt giảm chi phí phòng thủ ở nước ngoài để tập trung mọi nguồn lực cho nước Anh.
Healey thực hiện chuyến viếng thăm Singapore lần thứ hai vào ngày 22 tháng 4 năm 1967. Ông ta nói rõ Anh sẽ rút quân khỏi lục địa châu Á vào khoảng cuối thập niên 70. Tôi nhấn mạnh rằng cần phải duy trì nhân tố lòng tin vào an ninh chung của toàn khu vực và không nên có sự thay đổi đột ngột nào khác.
Healey giải thích quyết định rút quân là vì lý do kinh tế, không phải vì lý do quân sự và vì vậy sẽ không có khả năng thay đổi. Không còn cách nào khác để giải quyết vấn đề tài chính của Anh. Bên cạnh đó còn là nỗi lo sợ bị lôi kéo vào cuộc chiến Việt Nam. Anh thực sự kinh hoàng đối với chiến trường đẫm máu tại Việt Nam.
Hai ngày sau, trong một cuộc họp khác, Healey cố gắng làm dịu cú sốc bằng cách nói về sự viện trợ có ý nghĩa đối với Singapore. Sau cùng, Healey nói sẽ giảm chứ không phải là rút quân hoàn toàn. Ông ta nhận thức được ý nghĩa quan trọng của nhân tố niềm tin và sẽ cố gắng thuyết phục các đồng sự về vấn đề này. Tuy nhiên, Healey phải thực hiện một kế hoạch quốc phòng dài hạn cho nước Anh và không thể trì hoãn. Ông ta hỏi chúng tôi về kế hoạch đối với các xưởng tàu hải quân. Tôi nói với ông về dự định sẽ giao cho Swan & Hunter (một công ty đóng tàu ở Anh) đảm trách và “dân dụng hoá” các xưởng tàu, tôi đã thuyết phục họ tiếp quản xưởng tàu Keppel dân dụng để tập cho họ làm quen với các điều kiện của chúng tôi.
Thủ tướng Úc, Harold Holt và thủ tướng New Zealand, Keith Holyoake, cùng đánh điện cảnh báo tôi rằng việc rút giảm phần lớn quân lực Anh đang được xem xét và điều này sẽ dẫn đến sự tháo bỏ và giải thể hệ thống các thỏa ước phòng thủ của Khối Thịnh vượng chung.
Các chỉ huy quân đội Anh tại Singapore không mong muốn có một cuộc rút quân vội vã. Tháng 5, một tháng sau chuyến viếng thăm Healey, Keng Swee cùng tôi dùng bữa tối với Sir Michael Carver, Tổng tư lệnh Anh tại Viễn Đông. Carver hầu như rất vững tâm. Ông ta nói vai trò chính yếu của lực lượng quốc phòng Singapore là ngăn chặn bạo động từ bên trong và bên ngoài. Trong tình hình phải đương đầu với các thế lực thù địch kéo dài, chúng tôi sẽ phải dựa vào lực lượng đồng minh. Thái độ của ông ta làm tôi tin rằng ông ta hy vọng quân đội Anh sẽ ở lại Singapore trong một thời gian nữa.
E rằng các bậc thầy chính trị của Carver suy tính khác hoặc họ bị áp lực buộc phải thực hiện những điều họ không thể nghĩ đến, tôi đã viết thư cho Harold Wilson vào ngày 26 tháng 5 rằng bất cứ cuộc đàm phán nào về “sự viện trợ có ý nghĩa” đều có những ẩn ý đáng ngại. Nguy cơ bất ổn định về mặt kinh tế chỉ là thứ yếu so với nguy cơ tổn thất lòng tin nghiêm trọng khi người ta biết rằng Anh quyết định rút quân vào giữa thập niên 70. Wilson gởi thư phúc đáp trấn an và sau đó mời tôi đến London để mở đầu cho một cuộc thương thảo.
Tháng 6 năm 1967, khi Keng Swee và tôi gặp Healey, ông ta cung cấp cho chúng tôi một danh sách chi tiết các đợt rút quân tới ngày 31 tháng 3 năm 1968 và sự rút quân kéo dài từ năm 1968 tới 1971. Sau năm 1971, Anh sẽ để lại một lực lượng đổ bộ tại Đông Nam Á, một loại “cảnh sát tuần tra”.
Những cuộc bàn thảo có liên quan đến kinh tế đều do Keng Swee xử lý. Giống như tôi, ông ta lo lắng cho vấn đề an ninh hơn vấn đề kinh tế khi lực lượng Anh bị cắt giảm. Cả hai chúng tôi đều cảm thấy rằng bằng cách này hay cách khác, chúng tôi có thể kiềm chế sự tụt dốc của nền kinh tế nếu như tình hình an ninh và lòng tin không bị lung lay. Tôi đã hỏi ý kiến của một viên chức thuộc Bộ Phát triển đối ngoại, người chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề liên quan đến việc rút quân của Anh tại Malta, liệu rằng chúng tôi có thể dùng các sân bay bỏ trống cho mục đích dân dụng hay không. Theo kinh nghiệm của người Anh, ông ta trả lời, các sân bay bỏ trống hoặc là được sử dụng cho nông nghiệp, hoặc trong một số ít trường hợp được sử dụng để phục vụ cho ngành công nghiệp nhẹ. Tôi không nghĩ rằng nông nghiệp và công nghiệp nhẹ có thể hứa hẹn được điều gì cho Singapore và yêu cầu cho phép Ủy ban Phát triển Kinh tế của chúng tôi vào ba sân bay của Anh gồm Tengah, Seletar và Changi để quyết định xem sau này chúng tôi có thể sử dụng chúng như thế nào.
Quy định về quân sự của Anh đòi hỏi họ hủy thiết bị dư thừa của quân đội, nhưng Healey đồng ý xem xét lại qui định này nhằm chuyển giao lại các thiết bị đó cho Singapore phục vụ cho việc huấn luyện hay cho những mục đích khác. Ông và đồng sự sẽ hậu thuẫn cho chúng tôi. Hai cuộc gặp gỡ này là nguồn động viên lớn. Chúng tôi cảm thấy tự tin rằng chúng tôi có thể giải quyết được mọi vấn đề vào khoảng giữa thập niên 70. Và tôi không yêu cầu điều gì hơn thế. Swan & Hunter khẳng định xưởng tàu hải quân tại Sembawang có một triển vọng tốt đẹp, và một ủy ban gồm Bộ Hải quân, Swan & Hunter và chính quyền Singapore có thể hoạch định việc sử dụng nó cho mục đích thương mại.
Ngày 26 tháng 6 năm 1967, trong một cuộc thương thuyết riêng, Wilson hứa rằng đây sẽ là lần cuối nghị viện đương nhiệm thực hiện cuộc xét duyệt lại chính sách quốc phòng. Riêng bản thân Healey cũng hứa sẽ không diễn ra cuộc xét duyệt lại chính sách quốc phòng nào xa hơn. Ấn tượng của tôi chính là việc Wilson, thậm chí hơn cả Healey, muốn mở cho Anh một sự chọn lựa tại đông Suez. Điều mà ông ta cần đến sự có mặt của tôi ở London không phải là để tranh luận lý lẽ của quyết định ở lại đông Suez mà là muốn tôi thuyết phục các nghị sĩ thứ yếu đảng Lao Động và các bộ trưởng nội các đang chống đối quyết định này.
Sau buổi trưa hôm đó, tôi đã có cuộc nói chuyện với các nghị sĩ thứ yếu đảng Lao Động tại Hạ viện. Tình hình tại Á-Phi, tôi nói, đã thay đổi nhanh chóng. Nehru đã chết, Sukarno mất uy tín, còn Mao thì đang để hết tâm trí vào cuộc Cách mạng Văn hóa điên rồ. Nửa triệu quân Mỹ đang ở miền Nam Việt Nam. Thời kỳ thống trị của người da trắng tại châu Á đã trôi qua. Và hiện tại, người châu Á muốn tự mình giải quyết các vấn đề của họ nhằm mục đích sao cho các nước lớn ở châu Á có thể dàn xếp với các nước nhỏ hơn. Các nước nhỏ hơn có quyền yêu cầu những người bạn từ phương Tây giúp họ khôi phục thế cân bằng.
Tôi có cuộc nói chuyện hàng giờ đồng hồ với các bộ trưởng của Wilson. Cuộc họp nửa giờ theo lịch định với Jim Callaghan, Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh (tôi đã gặp ông ta vài lần mười lăm năm trước), đã tiếp tục kéo dài đến một tiếng rưỡi đồng hồ. Thời giờ cứ trôi qua, khi chuông định giờ reng, Jim ra ngoài đi đến hành lang nghị viện bỏ phiếu nhưng yêu cầu tôi ở lại. Cuối buổi họp, ông ta nói, “Tôi tán thành việc đặt ra thời hạn Anh rút quân, nhưng tôi sẽ suy nghĩ kỹ những gì ông nói. Lúc này tôi không có ý kiến”. Ông ta khuyên tôi gặp Roy Jenkins, Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Roy Jenkins im lặng lắng nghe tôi và nói rằng ông không tán đồng việc đặt ra thời hạn, mà là Anh sẽ phải rút khỏi lục địa vào năm 1975.
Vị Bộ trưởng hầu như chống đối lại quan điểm của chúng tôi là Dick Crossman, lúc đó là Chủ tịch Hạ viện. Trong suốt một giờ đồng hồ ông ta đã quát tháo và mắng nhiếc tôi lừa dối các đồng sự của ông trong vấn đề ở lại đông Suez và cố ý khiêu khích tôi bằng những lời lẽ khiếm nhã. Ông ta muốn Anh nhanh chóng rút quân vào năm 1970. Ông ta và các nghị sĩ cùng phe muốn dành những khoản tiết kiệm để tăng trợ cấp dưỡng lão, hạ thấp lãi suất các khoản vay trong nước và tranh thủ được nhiều phiếu bầu hơn. Ông ta nói trong tâm trạng thất vọng, “Các ông không lo lắng về tôi vì hiện tại tiếng nói của tôi không mạnh trong nội các, tuy nhiên tôi đang thắng thế, và rốt cuộc Đảng đã quay trở lại tán đồng quan điểm của tôi”. Cao ủy A. P. Rajah cũng đang có mặt, nghĩ rằng Crossman đang trút sự giận dữ vì những lý lẽ của tôi đã khuyến khích mạnh mẽ cho những người chủ trương ở lại.
Lúc này, tôi tin là tình hình trở nên tốt đẹp đối với chúng tôi. Tuy nhiên không có sự bảo đảm nào cho thấy sẽ không xảy ra sự sụt giá thấp hơn nữa đối với đồng bảng Anh, và điều này sẽ kéo theo một loạt những khủng hoảng khác trong nội các Anh, một cuộc xét duyệt lại chính sách quốc phòng khác và sự cắt giảm lực lượng nhiều hơn. Nguy cơ này thậm chí vượt ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ Anh. Yếu tố đáng buồn là tình trạng khó chịu của người dân Anh, và những người lãnh đạo đã không truyền được tư tưởng cho người dân của họ. Các bộ trưởng và nghị sĩ thứ yếu đảng Lao Động thất vọng và nản lòng khi họ buộc phải làm những việc họ từng nói không muốn, bao gồm cả chính sách chủ động gây lạm phát rồi giảm lạm phát kế tiếp nhau mà họ từng chỉ trích chính quyền Bảo Thủ.
Hồ sơ lưu trữ của Tổng thống Lyndon Johnson cho thấy vào tháng 6 năm 1967 ông ta đã thúc giục Wilson tại Washington rằng “không được thực hiện bước đi nào ngược lại với quyền lợi của người Anh hay người Mỹ cũng như ngược lại với quyền lợi của các quốc gia độc lập tại châu Á”. Tuy nhiên, Johnson không kiên quyết như các cố vấn của ông đã khuyên trong các bản đệ trình của họ lên ông trước buổi họp. Ngay từ tháng 12 năm 1965, Robert McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng của Johnson, đã viết cho Johnson rằng Mỹ đánh giá sự hiện diện và các hiệp ước của Anh tại Viễn Đông có tầm quan trọng cao hơn so với ở châu Âu.
Sách trắng (Báo cáo do chính phủ công bố về chính sách của mình về một vấn đề sẽ được Quốc hội xem xét.)của Bộ Quốc phòng Anh phát hành vào tháng 7 năm 1967 thông báo ý định cắt giảm 50 % lực lượng quân đội ở Đông Nam Á vào khoảng thời gian 1970-1971 và sẽ rút hoàn toàn vào giữa thập niên 70 Harold Holt mất tinh thần, đã viết cho Wilson và bộc bạch suy nghĩ với tôi: “Chúng tôi thấy rằng khi thực hiện những quyết định lịch sử, nhìn từ một khía cạnh nào đó, chính phủ Anh đang muốn rũ bớt vai trò trách nhiệm của mình và các thỏa ước quốc tế mà Anh đã gánh vác từ nhiều năm nay”, và hiện tại người Úc phải “cân nhắc lại toàn bộ tình thế của chúng ta”.
Không lâu sau, Wilson mời tôi đến nói chuyện tại cuộc hội nghị tổ chức hằng năm của đảng Lao Động vào tháng 10 năm 1967. Tôi đồng ý và biết rằng ông muốn tôi thuyết phục các thành viên trong đảng không chống đối việc ông quyết định ở lại Singapore. Tôi được xem là một diễn giả khách mời quan trọng của họ, một đại biểu anh em vào thời gian chuẩn bị cho cuộc hội nghị ngày Chủ nhật 1 tháng 10 tại Scarborough. Tôi bày tỏ niềm hy vọng rằng mối liên kết lâu dài hơn 150 năm giữa Anh với Singapore có thể cho phép họ thực hiện sự rút quân theo cách “cho chúng tôi cơ hội tốt nhất để tiếp tục duy trì an ninh và ổn định”, và với thời gian ngắn cùng với sự nỗ lực lớn, chúng tôi sẽ tồn tại vững vàng vào giữa thập niên 70, khi không còn nhận được phí tổn mà các căn cứ của Anh trả cho chúng tôi nữa. Tôi biết các đại biểu sẽ quan tâm đến tình hình ở Việt Nam. Vì không thể làm ngơ trước sự kiện đó, tôi nói, “tôi không muốn gây ấn tượng như diều hâu hay bồ câu. Nếu phải chọn một hình ảnh ẩn dụ từ loài chim, tôi thích nghĩ về một con cú. Bất cứ ai hướng về những gì đang xảy ra tại Việt Nam hẳn phải có một cái nhìn đầy ác ý. Việc lẽ ra đã không cần phải đi đến chỗ như vậy. Và có lẽ Việt Nam không phải là nơi khôn ngoan nhất cũng không phải là mảnh đất an toàn nhất tại châu Á để tạo thế đứng. Vậy mà cả Việt Nam và Mỹ đã phải đổ quá nhiều máu và trả giá bằng sự hy sinh to lớn”. Trước một thính giả bài xích chiến tranh Việt Nam, điều xa nhất tôi muốn ngụ ý rằng nếu Mỹ rút quân, sẽ có những hậu quả nghiêm trọng đối với các khu vực còn lại tại Đông Nam Á.
Sáu tuần sau đó, Chủ nhật ngày 18 tháng 11 năm 1967, không có bất kỳ dấu hiệu báo trước nào, Keng Swee nhận được một thông điệp từ Callaghan, Bộ trưởng Tài chính Anh, tương tự như những thông điệp mà Callaghan hẳn đã gởi cho các Bộ trưởng Tài chính khác thuộc Khối Thịnh vượng chung, rằng đồng bảng Anh đã sụt giá từ một bảng Anh đổi được 2,8 đôla Mỹ xuống còn 2,4 đôla Mỹ. Có nghĩa là chúng tôi đã mất 14.3% giá trị của số bảng Anh mà chúng tôi dự trữ ở London. Tiền Anh đã chịu sức ép bán ra sau khi chính phủ đảng Lao Động nắm chính quyền năm 1964 nhưng chúng tôi đã không rút khoản dự trữ của chúng tôi. Quân lực của họ đã bảo vệ chúng tôi trong cuộc đối đầu với Indone- sia. Chúng tôi không muốn bị trách rằng đã tham gia làm đẩy nhanh sự mất giá đồng bảng Anh. Cũng tối Chủ nhật hôm đó, trong một chương trình tivi được phát đi, Wilson đã nói: “Hiện tại chúng tôi đang đơn độc; điều đó có nghĩa là phải ưu tiên cho nước Anh”. Tình hình thật đáng ngại. Tuy nhiên, Healey rất vững vàng khi phát biểu tại Hạ viện ngày 27 tháng 11: “Tôi tin toàn thể các thành viên trong chính phủ cùng chia sẻ quan điểm của tôi rằng chúng ta phải giữ vững niềm tin vào lực lượng và đồng minh trong quyết định rút giảm quân lực. Chúng ta không thể có sự thay đổi nào ngược lại với những quyết định tháng Bảy… Đó là lý do tại sao ngài Bộ trưởng Tài chính Rt Hon Friend [Callaghan] đã nói vào ngày thứ Hai rằng sự cắt giảm phải được thực hiện trong khuôn khổ các chính sách quốc phòng đã được tuyên bố trong mùa hè vừa qua. Hãy để tôi nói với ngài Rt Hon rằng sự cắt giảm này không có nghĩa là thúc giục việc rút giảm hay tái bố trí lực lượng của chúng ta”.
Tôi đã viết thư cho Healey cảm ơn về sự bảo đảm của ông. Tôi đã lầm: Healey không thể thuyết phục được chính phủ. Thủ tướng Wilson đang hết sức cố gắng để cứu lấy chính quyền của ông ta. Ông đã biểu lộ điều đó khi phát biểu “phải ưu tiên cho nước Anh”. Wilson còn nói “không có khoản phí tổn nào có thể được xem là bất khả xâm phạm”. Tôi viết cho Wilson vào ngày 18 tháng 12 tường thuật chi tiết về việc chính quyền Singapore đã ủng hộ trung thành đồng bảng Anh như thế nào và hậu quả của sự mất giá đồng bảng Anh là chúng tôi đã tổn thất 157 triệu đô Singapore (Ủy ban Tiền tệ 69 triệu; chính phủ Singapore 65 triệu; và các ủy ban hành pháp 23 triệu). Kết thúc lá thư, tôi viết: “Tôi không muốn tin rằng những khó khăn hiện tại có thể phá vỡ sự tín nhiệm và lòng tin mà chúng ta đã xây dựng từ những thiện chí, thiện ý và dự định tốt đẹp cho nhau. Tôi sẽ thực hiện lời tuyên bố của mình ở Scarborough và về phía chúng tôi, chúng tôi sẽ tổ chức buổi lễ đưa tiễn theo nghi thức khi lần cuối cùng lực lượng Anh rời khỏi căn cứ của họ giữa thập niên 70”.
Chỉ là hy vọng mong manh. Trong cuộc khủng hoảng nghiêm trọng lần đầu tiên của chính phủ, Wilson không còn thời gian để cứu lấy những người bạn và đồng minh, mặc cho lòng trung thành của họ. Thay vì hồi âm, Wilson cho George Thomson, Bộ trưởng Quan hệ Khối Thịnh vượng chung, đến gặp tôi vào ngày 9 tháng Giêng năm 1968. Thomson đưa ra những lời biện hộ và lẩn tránh. Ông ta nói sự phá giá tiền tệ đã cho chính phủ Anh một cơ hội để sắp xếp lại nền kinh tế. Những cắt giảm về mặt quốc phòng cũng có nghĩa là đã có một sự thay đổi cơ bản trong vai trò lịch sử cũng như trong cơ cấu quốc phòng dài hạn của Anh. Anh sẽ giới hạn hoạt động của họ chỉ trong châu Âu, tuy vẫn có khả năng giúp đỡ đồng minh bên ngoài châu Âu. Tôi đã hỏi về lời tuyên bố của Healey về một lực lượng đổ bộ tại Singapore. Khả năng đó cũng đã bị loại bỏ. Sẽ không có lực lượng hải quân nào trú đóng tại Đông Nam Á sau năm 1971. Tôi hỏi liệu quyết định rút quân vào năm 1971 có chắc chắn hay không, Thomson trả lời quyết định đó là chắc chắn, tuy nhiên Anh cũng sẽ quan tâm tới ý kiến của các thành viên trong Khối Thịnh vượng chung. Thái độ Thomson hòa nhã và thân thiện. Ông bày tỏ niềm cảm thông với chúng tôi và rằng đây là một nhiệm vụ không dễ dàng chút nào mà Wilson giao cho ông. Để làm dịu cú sốc, Wilson mời tôi đến thảo luận tại Chequers, nhà nghỉ cho thủ tướng.
Trong sự thất vọng và tức giận trước thái độ coi nhẹ những lời cam kết được thực hiện trang trọng, tôi nói rằng chúng tôi có thể đặt lợi ích của Singapore lên hàng đầu và bảo vệ số dư đồng bảng Anh bằng cách rút chúng khỏi London. Tuy nhiên, tôi quyết định đến London và gặp Wilson tại Chequers.
Wilson thay đổi địa điểm từ Chequers sang số 10 đường Downing vào một ngày Chủ nhật. Lúc 17 giờ 30 tôi đến, ba bộ trưởng quan trọng cũng có mặt: Denis Healey (Bộ Quốc phòng), George Brown (Bộ Đối ngoại), và George Thomson (Bộ Quan hệ Khối Thịnh vượng chung). Wilson muốn tạo cho tôi niềm hy vọng bằng cách nói rằng nội các đã đồng ý không ra quyết định cuối cùng cho đến khi nào tôi gặp ông ta.
Tôi nói bất kỳ sự tuyên bố không thận trọng nào rằng quân lực Anh sẽ rút khỏi lục địa châu Á vào năm 1971 cũng sẽ làm lung lay niềm tin của các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư từ Hong Kong, và như vậy sẽ làm cho họ quyết định đi xa hơn. Để khôi phục niềm tin, Singapore sẽ phải tốn một khoản chi phí khổng lồ cho quân đội nhằm xây dựng mạng lưới quốc phòng vững chắc và đáng tin cậy. Tôi chỉ rõ các dịch vụ của quân đội Anh đang sở hữu những bất động sản có giá trị ở Singapore, nhà cửa và các doanh trại đáng giá trên 55 triệu bảng. Nếu việc rút quân diễn ra trong ba năm, họ sẽ không bán được chúng bằng một nửa giá này trên thị trường tự do.
Wilson lặp lại những gì mà Healey đã từng nói với tôi một năm trước ở Singapore rằng quyết định rút quân được thực hiện dựa trên những lý do kinh tế và không thể thay đổi được. Quyết định đúng lúc này, vào tháng 3 năm 1971, đã tạo được sự nhất trí hoàn toàn và các bộ trưởng đương nhiệm của Wilson là đại diện cho quan điểm của nội các. Wilson tỏ ra quan tâm đến việc viện trợ nhằm trợ giúp cho kinh tế của Singapore. Tôi đáp rằng mối quan tâm chính của tôi là an ninh, bởi vì nếu không có an ninh sẽ không có đầu tư, điều mà chúng tôi còn cần hơn cả sự viện trợ.
Wilson để cho Healey biện giải lý lẽ của cuộc rút quân sớm hơn dự định, trong khi ông ta ngồi ở phía sau, ngậm ống tẩu và nhìn với sự thông cảm. Qua cử chỉ của Wilson, tôi biết rằng sẽ không thể buộc ông ta giữ lời hứa là ở lại cho đến giữa thập niên 70.
Các bộ trưởng Anh bày tỏ sự cảm thông với hoàn cảnh khó khăn của tôi. Người khuyến khích tôi nhiều nhất chính là George Brown. Nhớ lại những ý kiến mạnh mẽ của ông khi chúng tôi gặp nhau ở Stockholm năm 1966, rằng lực lượng Anh nên rút khỏi Singapore, tôi đã ngạc nhiên khi nghe ông ta hỏi tôi cần bao nhiêu thời gian. Và tôi đã đáp thời hạn là ngày 31 tháng 3 năm 1973. Vài năm sau đó, ông ta bảo tôi: Tổng thống Mỹ Johnson thuyết phục ông rằng trong khi cuộc chiến tại Việt Nam còn tiếp diễn, Mỹ không thể thay thế lực lượng Anh tại vịnh A-rập và Singapore, sự đóng góp của Anh về mặt chính trị là vô giá.
Khoảng 7 giờ chiều, Roy Jenkins, người thay thế Callaghan trong chức vụ Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh, đã tham gia với chúng tôi. Ông ta khơi mào bằng một đề tài có liên quan, rằng vị trí kinh tế của Singapore nổi bật hơn so với các nước khác trong khu vực. Chúng tôi đang phát triển tốt. Tình thế nước Anh thì khá nghiêm trọng. Ông so sánh lượng dự trữ của Anh và Singapore để cho thấy rằng con số bình quân đầu người của Anh thấp hơn so với Singapore. Roy chỉ trích chính phủ Singapore trong việc đầu tư nguồn thặng dư ngân sách vào nơi khác mà không thông báo cho chính phủ Anh. Ông ta công kích chúng tôi. Chúng tôi chưa bao giờ rút bất kỳ khoản dự trữ nào trong số đồng bảng Anh. Song, chúng tôi cũng không có bất kỳ cam kết nào đặt thặng dư ngân sách của chúng tôi vào đồng bảng Anh. Ông ta chỉ trích rằng chúng tôi đã không giúp đỡ khi chúng tôi có khả năng và vì vậy cũng không thể kỳ vọng ở họ một sự quan tâm đặc biệt nào trong hiện tại.
Chúng tôi đã nói chuyện trong suốt bữa ăn tối, lặp đi lặp lại những lập luận trong lúc uống rượu vang đỏ – loại rượu ưa thích của Jenkin. Sau năm tiếng rưỡi đồng hồ, chúng tôi kết thúc cuộc tranh luận vào lúc 22 giờ 50. Tóm lại, Wilson nói chính phủ Anh chấp nhận yêu cầu giúp Singapore duy trì niềm tin. Song ông nhấn mạnh rằng không thể có an ninh lâu dài đối với Singapore trừ khi nó nằm trong khuôn khổ của một hiệp ước phòng thủ khu vực rộng hơn với các nước Khối Thịnh vượng chung khác có liên quan. Sẽ không khôn ngoan chút nào nếu Singapore quyết định vội vàng trong việc mua trang thiết bị quân đội trước khi tính khả thi của một sự dàn xếp như thế được xem xét chi tiết hơn. Chính quyền của ông ta sẽ làm tất cả những gì mà họ cho là hợp lý, nhất định không thay đổi mục đích tối quan trọng của họ (rút toàn bộ quân vào năm 1971), nhằm giúp Singapore duy trì an ninh và hy vọng rằng chính phủ Singapore sẽ để tâm đến lời khuyên của Anh.
Ngày hôm sau, thứ Hai ngày 15 tháng 1 năm 1968, tại Hạ viện, Healey tuyên bố lực lượng Anh tại đông Suez sẽ rút quân vào năm 1971, song ông ta thay đổi thời điểm của đợt rút quân cuối cùng từ tháng 3 sang tháng 12 năm 1971. Sự chênh lệch 9 tháng này là có ý nghĩa bởi vì một cuộc tổng tuyển cử sẽ phải được tổ chức trước tháng 12 năm 1971. Nói cách khác, quyết định thời điểm cuối cùng của cuộc rút quân hoặc sẽ được khẳng định bởi một chính quyền mới của đảng Lao Động hoặc sẽ bị trì hoãn bởi một chính quyền của đảng Bảo Thủ. Tôi bằng lòng với sự nhượng bộ này. Các phóng viên tạp chí quốc phòng đưa tin về bài diễn văn của Healey ghi nhận rằng ông ta để ngỏ chuyện này. Chuyến đi London lần này của tôi không phải là hoàn toàn vô ích. Tuy nhiên, Wilson biết được rằng đây chính là đoạn kết của một kỷ nguyên.
Trong suốt năm ngày ở London vào tháng Giêng 1968, tôi đã nỗ lực để kéo dài thời gian hiện diện của người Anh. Ngoài những cuộc thương thảo với Wilson, tôi còn trình bày tình thế của mình với các lãnh tụ đảng Bảo Thủ, chủ yếu là với Ted Heath, Reginald Maudling, và Iain MacLeod. Họ rất cảm thông và ủng hộ; nếu họ ở trong chính phủ, họ sẽ quyết định ở lại lâu hơn nữa mà không cần đặt ra một thời hạn rút quân nào. Điều đó tạo một sự khác biệt đối với kết quả cuối cùng thực sự. Truyền hình và báo chí Anh đã đưa tin nhiều về tôi. Tôi có khả năng làm người ta chấp nhận lý lẽ của mình, mà không làm họ tức giận. Tôi đã đánh trúng vào những tình cảm sâu sắc nhất của người dân Anh rằng mối liên kết lợi ích và lâu dài của chúng tôi không nên kết thúc theo cách thức không thích đáng, như vậy sẽ làm tổn hại đến tương lai của Singapore. Tôi đã phải tạo cho mình một gương mặt rạng rỡ nhất như có thể. Nhưng Keng Swee đã bay về Singapore trước tôi, thốt lên trong sự thất vọng với giới báo chí tại sân bay Singapore rằng: “Đảng Lao Động đã nuốt lời hứa – một sự vi phạm đáng hổ thẹn lời cam kết của họ với chúng tôi”.
Tôi không thấy ích lợi gì khi trút ra nổi tức giận của mình. Những đồng sự khác của tôi, Raja, Chin Chye và Sui Sen đã thực sự thất vọng và lo sợ trước những viễn ảnh về an ninh và kinh tế của Singapore. Song họ không trách người Anh. Những lời giận dữ sẽ chỉ làm phiền các bộ trưởng Anh và làm mếch lòng các chỉ huy quân đội Anh tại Singapore, những người mà xét cho cùng chỉ là người dân Anh yêu nước và trung thành. Tôi cần đến thiện chí và sự hợp tác từ phía người Anh để tiến hành cuộc rút quân với càng ít bất đồng và càng nhiều thiện chí càng tốt, đồng thời không có xưởng quân đội nào bị tháo gỡ toàn bộ như đã từng xảy ra ở Guinea (Tây Phi) khi quân Pháp rút vào những năm 1960.
Các sự kiện thay đổi đột ngột đã tăng thêm áp lực với chúng tôi. Những khó khăn về kinh tế cũng như số người thất nghiệp sẽ tăng lên. Về mặt quốc phòng, chúng tôi cần một lực lượng không quân. Làm thế nào chúng tôi có thể xây dựng được một lực lượng không quân từ đầu và có một đội máy bay chiến đấu hoạt động ngay vào cuối năm 1971? Khi tôi gặp Healey lần thứ hai để đề nghị mua một phi đội Hawker Hunter, ông ta sẵn lòng đồng ý. Ông sẽ còn giúp chúng tôi đào tạo những người có khả năng sử dụng chúng, một sự thay đổi thái độ hoàn toàn so với lần tôi gặp ông ta vào tháng 10 năm 1966, không đầy 2 năm trước đây, khi ông ta phất tay về phía chúng tôi, cho rằng chúng tôi có những ý định “tinh quái”.
Giới truyền thông Anh bày tỏ thái độ thông cảm nhưng nhìn chung họ bi quan đối với tương lai của Singapore. Singapore sẽ mất khoảng 20% GDP khi Anh không còn chi trả phí tổn của quân đội và khi không còn nằm dưới sự bảo vệ của quân đội Anh, họ thấy rằng tương lai của chúng tôi thật bấp bênh. Chủ tịch của Daily Mirror Group, Cecil King, có mặt trong cuộc họp báo khi tôi từ London trở về Singapore vào tháng Giêng. Ông ta nói với thư ký báo chí của tôi, Alex Josey, rằng ông ta ủng hộ tôi nhưng tình hình thật vô vọng. Với tình trạng thất nghiệp cao và nền an ninh không bảo đảm sau cuộc rút quân của Anh, nền kinh tế chắc chắn sẽ suy thoái. King không phải là người duy nhất có một cái nhìn bi quan như thế đối với viễn ảnh của Singapore.
Để lấp vào khoảng trống để lại sau khi kết thúc Hiệp ước Phòng thủ giữa Anh – Malaya (Anglo-Maylayan Defense Agreement – AMDA), Anh đã đề ra một hiệp ước phòng thủ giữa 5 nước. Hiệp ước này chỉ là sự đề nghị, không phải là một bổn phận bắt buộc. Tôi biết Úc sợ rằng Indonesia sẽ có một ấn tượng sai lệch, rằng 5 quốc gia – Vương quốc Anh, Úc, New Zealand, Malaysia và Singapore – đang hợp sức để chống lại Indonesia. Tháng 2 năm 1968, Bộ trưởng Đối ngoại của Úc, Paul Hasluck, khi ở Singapore đã bảo tôi rằng Úc sẽ duy trì lực lượng cho đến cuối năm 1971, sau thời gian đó, chính quyền của ông không đoan chắc điều gì. Nói cách khác, lực lượng Úc có thể rời khỏi cùng với Anh. Tôi nhấn mạnh với ông rằng cần thiết phải nói rõ với mọi người đó không phải là ý định của đồng minh phương Tây nhằm để lại một khoảng trống trong khu vực sau năm 1971 mà có thể được lấp vào bởi Nga hoặc Trung Quốc hay bất kỳ lực lượng nào khác. Ông ta nhấn mạnh sự hợp tác giữa Malaysia và Singapore là nền tảng cơ bản trong kế hoạch phòng thủ của Úc. Tôi cam đoan với ông ta rằng chúng tôi xem bất kỳ cuộc tấn công nào vào Malaysia cũng là mối đe dọa đối với Singapore. Nhưng tôi khuyến khích ông ta nói rõ với người Malaya rằng bất kỳ hiệp ước song phương nào với Úc mà gạt Singapore ra ngoài cuộc sẽ đơn giản không thực hiện được. Tôi kể lại chuyến viếng thăm Melbourne dự lễ tưởng niệm của Thủ tướng Harold Holt vào tháng 12 năm 1967, Razak cũng đi cùng chuyến bay nhưng ông ta hầu như phớt lờ tôi. Song sau khi McEwen, Phó Thủ tướng Úc đang là Quyền Thủ tướng trước khi John Gorton nhậm chức, đã khước từ thẳng thừng khi ông ta cố gắng để đạt một hiệp ước song phương giữa Úc và Malaysia, Razak trở nên biết điều và thỏa hiệp khi ông tranh luận với tôi về vấn đề an ninh quốc phòng của Malaysia suốt ba giờ đồng hồ trên chuyến bay. Mối quan hệ song phương về quốc phòng giữa Singapore và Malaysia đã cải thiện một cách đáng kể sau sự kiện này.
Thật ra thì vào tháng 3 năm 1968, Razak đã nói với Kim San và Keng Swee rằng nền an ninh của hai quốc gia là không thể tách rời, rằng Malaysia không thể gánh nổi khoản phí tổn quá nặng nề cho quân đội và Singapore, một hòn đảo nhỏ bé và dễ bị tấn công bởi những cuộc đột kích, nên tập trung vào khả năng phòng không trong khi Malaysia với bờ biển dài nên tập trung vào lực lượng hải quân. Bằng cách này, chúng ta sẽ hỗ trợ bổ sung lẫn nhau. “Là hai lãnh thổ riêng biệt, chúng ta nói chuyện với nhau trên tinh thần bình đẳng. Điểm nào chúng ta có thể nhất trí, chúng ta cùng hợp tác. Nếu không nhất trí, tốt thôi, chúng ta sẽ chờ một thời gian nữa.”
Không lâu sau cuộc bạo loạn ở Kuala Lumpur vào tháng 5 năm 1969, theo sau đó là chính sách nghị hòa của nghị viện Malaysia, Razak phải đại diện cho Malaysia tại Canberra trong cuộc họp các thủ tướng năm nước, để bàn về việc bố trí phòng thủ sau khi Anh rút quân vào năm 1971. Trước khi hội nghị bắt đầu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Úc bảo tôi rằng Thủ tướng của ông, John Gorton, sẽ không tham dự cuộc họp.
Trong một cuộc thảo luận riêng, Thứ trưởng Đối ngoại Úc nói Gorton nghi ngờ khả năng làm chủ tình hình của chính phủ Malaysia, tin rằng rắc rối về chủng tộc sẽ bùng nổ xa hơn và Singapore sẽ bị “lôi kéo” vào cuộc xung đột. Gorton hoàn toàn mất niềm tin vào Malaysia. Ông ta không muốn Úc dính líu vào bất kỳ thỏa ước phòng thủ nào với Malay- sia. Úc chính là những người không vui nhất đối với việc Anh sẽ rời khỏi khu vực này và họ không muốn bị đè nặng bởi trách nhiệm đối với vấn đề quốc phòng của Malaysia và Singapore. Gorton thấy trước thảm họa và e sợ phản ứng của cử tri đối với bất kỳ cam kết mới nào mà Úc có thể thực hiện cho quốc phòng của Malaysia và Singapore. Tuy nhiên, vào phút cuối, ông ta đã đến để khai mạc hội nghị nhưng lập tức rời khỏi ngay sau bài diễn văn. Ông ta nhấn mạnh sự cần thiết của việc hòa hợp chủng tộc trong khu vực và sự đảm bảo tuyệt đối từ phía Singapore và Malaysia rằng quốc phòng của hai nước là “không thể tách rời”. Razak và các viên chức Malaysia trông cực kỳ thất vọng.
Tối hôm đó, tôi có cuộc nói chuyện với Razak trong phòng ông ta tại khách sạn. Tôi quyết định gạt bỏ sự dè dặt và ủng hộ chủ trương của ông rằng sau năm 1971, người đứng đầu trong Hiệp ước Quốc phòng 5 nước nên có trách nhiệm đối với các đại diện của năm nước chứ không chỉ đối với Singapore và Malaysia như Úc đã đề xuất. Ý kiến này làm Razak phấn khởi hẳn. Đến cuối cuộc hội nghị, Gordon Freeth, Bộ trưởng Đối ngoại Úc, làm rõ rằng nếu Malaysia bị tấn công, Úc có thể dàn quân hoặc ở phía Đông hoặc ở phía Tây Malaysia.
Đảng Bảo Thủ ở Anh đã bàng hoàng trước quyết định rút quân của người Anh ra khỏi đông Suez. Tháng Giêng năm 1970, Edward Heath, lãnh đạo của phe đối lập, đã đến Singapore. Tôi đã sắp xếp cho ông ta có cuộc thảo luận với các bộ trưởng chủ chốt nhằm giúp ông ta có một cái nhìn toàn diện đối với sự phát triển kinh tế và tiến trình xây dựng quốc phòng cũng như có một sự hiểu biết khái quát về tình hình xã hội và chính trị của chúng tôi. Tôi cũng bố trí cho RAF giúp Edward nhìn toàn bộ quang cảnh hòn đảo từ một chiếc trực thăng. Edward đã thật sự ấn tượng và tuyên bố với giới báo chí rằng ông ta sẽ “cản trở” chính sách rút quân khỏi đông Suez của đảng Lao Động. Ông nói: “Sẽ không có bất kỳ vấn đề nào bàn đến việc lực lượng Anh rút quân hay trở về. Chỉ có một vấn đề cần bàn đến là lực lượng Anh vẫn tiếp tục ở lại và chúng tôi với tư cách là một chính quyền đảng Bảo Thủ sẽ ngăn chặn cuộc rút quân”. Ông ta nói thêm rằng ông “đã ấn tượng sâu sắc bởi những thành tựu thực sự xuất sắc mà chúng tôi đã mang lại cho hòn đảo này… Nền tảng của chúng chính là niềm tin vào tương lai, hòa bình và sự ổn định trong toàn khu vực.” Tôi hy vọng các chỉ huy quân đội Anh sẽ ghi nhận những lời này và không quá vội vã rút quân.
Năm tháng sau, tháng 6 năm 1970, đảng Bảo Thủ thắng trong cuộc tổng tuyển cử và Edward Heath trở thành thủ tướng. Cũng trong tháng đó, Bộ trưởng Quốc phòng, Peter Carrington, viếng thăm Singapore để thông báo rằng việc rút quân sẽ tiến hành theo hoạch định, nhưng Anh vẫn để một phần lực lượng lại Singapore trên thế cân bằng với Úc và New Zealand. Về mặt cá nhân, Carrington bảo tôi rằng Anh sẽ không để lại bất kỳ đội máy bay vận chuyển hay chiến đấu nào. Sẽ chỉ có 4 máy bay giám sát Nimrod; một phi đội trực thăng Whirlwind và một tiểu đoàn sẽ đóng quân tại Nee Soon, một trong những doanh trại của họ. Sẽ có 5 tàu chiến/tàu khu trục tại các vị trí khắp vùng đông Suez và Hiệp ước Phòng thủ Anh – Malaysia sẽ được thay thế bởi một “hiệp ước chính trị mang tính chất thương nghị”. Anh nói rõ rằng họ muốn tham gia, không phải với tư cách người lãnh đạo, mà với tư cách một thành viên “trên cơ sở bình đẳng” trong Hiệp ước Phòng thủ 5 Quốc gia đã được hoạch định.
Giữa tháng 4 năm 1971, 5 thủ tướng đã gặp nhau tại London để thông qua lần cuối các hiệp ước chính trị thay thế AMDA. Những lời lẽ mang tính quyết định nhất: “Trong trường hợp bất kỳ hình thức tấn công vũ trang nào được tổ chức hay được hỗ trợ từ bên ngoài, hoặc mối đe dọa của một cuộc tấn công như thế chống lại Malaysia và Singapore, các chính phủ ngay lập tức sẽ cùng nhau hội ý để quyết định nên sử dụng biện pháp nào, cùng làm hay riêng lẻ, để giải quyết tình hình”. “Hội ý ngay lập tức” vẫn còn tốt hơn là không hội ý.
Ngày 1 tháng 9 năm 1971, hệ thống phòng không hợp nhất đã được thành lập. Ngày 30 tháng 10 năm 1971, AMDA được thay thế bởi FPDA. Kỷ nguyên cũ với nền an ninh được bảo hộ đã kết thúc. Từ giây phút này trở đi, chúng tôi phải tự có trách nhiệm đối với nền an ninh của quốc gia.
Song an ninh không phải là mối bận tâm duy nhất của chúng tôi. Chúng tôi còn phải mưu sinh, thuyết phục các nhà đầu tư đem tiền đầu tư vào các nhà máy sản xuất và các ngành kinh doanh khác tại Singapore. Chúng tôi phải học cách tồn tại mà không có bóng dù che chở của Anh và cũng không có một nội địa nào.
Bình luận