Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

8. Đối tượng của khế ước

ĐỐI TƯỢNG CỦA KHẾ ƯỚC 

ĐOẠN I: ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI

Các điều 668-672 DLB, 709-712 DLT, 677-682 DLVN 1972, 1126-1130 DLP đều không phân biệt đối tượng của khế ước và đối tượng nghĩa vụ. Thật ra mỗi khế ước phát sinh ra nghiều nghĩa vụ và mỗi nghĩa vụ có một đối tượng. Đối tượng của nghĩa vụ không phải chỉ là vật hữu hình. Đối tượng ấy có thể chỉ là vật vô hình. Ví dụ bằng sáng chế. Đó là giấy chu71gn nhận tự mình làm ra và đã đem ký thác ở phòng lục sự hay một tác quyền của một người có tài viết tiểu thuyết của mình mà thôi. Tác quyền là vật vô hình có thể nhượng bán. đối tượng là việc mà người thụ trái hứa cam kết làm theo. Ví dụ trong khế ước mua bán, ta thấy có sự thay đổi quyền sở hữu và sự thuyên chuyển đồ vật. Nghĩa vụ có thể có bất cứ đối tượng nào. Những bộ Dân luật căn cứ trên đối tượng để phân chia nghĩa vụ ra làm ba loại:
1) Nghĩa vụ cho (dare): Bán hay tặng một vật gì, có nghĩa là sang tên vật bán hay tặng dữ ấy cho người mua, hoặc cho kẻ tặng hưởng tặng vật.
2) Nghĩa vụ làm (obli ation de faire): Thí dụ: Cho thuê nhà là trao nhà mình cho người thuê sử dụng một cách hữu ích và êm ái. Trong khế ước cho người thuê công: Công nhận cam kết làm việc dưới sự điều khiển của chủ,  người thầu khoán cam kết cất nhà, xây cầu …
3) Nghĩa vụ không làm (obligation de ne pas faire): Cam kết không cất nhà trên đất của mình để khỏi che lấp nhà người khác bên cạnh.

Sau này có sự phân biệt trong những nghĩa vụ phải làm. Luật gia Demogue định rằng:
a) Có một số nghĩa vụ mà đối tượng là kết quả nhất định. Một nhà thầu cam kết xây cất một bức tường là  nghĩa vụ kết quả.
b) Và trong trường hợp khác, đối tượng là các phương tiện đem ra sử dụng. Có những thụ trái không có cam kết một kết quả nào nhứt định, người thụ trái chỉ có nghĩa vụ làm, hay đưa cho chủ dùng một số biện pháp mà không bao giờ bảo đảm kết quả tốt đẹp nào cả: Một thầy thuốc không có nghĩa vụ làm cho người bệnh hết bịnh, chỉ có nghĩa vụ đem một số biện pháp ra dùng hay là cho con bệnh dùng theo để chữa bịnh, nếu bệnh nhận chết thì không thể nào kiện thầy thuốc được, nếu không có bằng cớ là thầy thuốc đã vì bất cẩn hay sơ sót mà làm chết con bệnh (Nghĩa vụ phương tiện).
Những sự phân biệt trên có ích về phương diện dẫn chứng trách nhiệm khế ước. Dù bị chỉ trích, các tác giả đã áp dụng được sự phân biệt về nghĩa vụ kết quả và nghĩa vụ phương tiện. Luật gia Demogue bị một số tác giả khác chỉ trích vì những án lệ đã áp dụng theo quan niệm của ông;
Đối tượng chẳng những là một vật hiện tại mà có thể là vật sẽ có, điều 1130 – DLP áp dụng tại Nam phần và được lập lại tại điều 672 DLB, 681 DLVN 1972 và điều 712 DLT. Về thực tế, việc này thường xảy ra trong thương mãi: Các thương gia thường bán những hàng hóa mà họ cam kết sẽ sản xuất ra. Vậy chủ đích có thể là một vật hữu hình hoặc là một quyền lợi về sau. Thí dụ: Về quyền sở hữu một bất động sản công hữu, chia từng phần, có thể bán trước phần thuộc về mình, sau khi có cuộc bán đấu giá bất động sản đó. (…). Cũng có thể ký một khế ước đề áp để bảo đảm cho một món nợ chưa phát sinh. Thí dụ: Một đề ước để đương bất động sản cho một ngân hàng để vay tiền sau. (…).

ĐOẠN II: TÍNH CÁCH CỦA ĐỐI TƯỢNG

Theo nguyên tắc thì một nghĩa vụ có thể có bất cứ một đối tượng nào, nhưng dù sao đối tượng đó cũng phải có những ca1 tính như thế nào mới khiến cho khế ước có giá trị.
A_ CÁ TÍNH 1: Đối tượng phải có ích cho trái chủ. Sự ích lợi này không cần phải một ngân khoản hay tài vật mà một lợi ích tinh thần cũng đủ cho đối tượng có giá trị. Thí dụ trong khế ước tặng dữ, người thụ tặng phải có nghĩa vụ giúp đỡ đệ tam nhân như nuôi đứa con rơi của m2inh chẳng hạn. Trong khế ước này, người tặng không có một lợi ích vật chất nào, nhưng một lợi ích tinh thần to tát.

B_ CÁ TÍNH 2: Đối tượng phải xác định nếu có thể xác định được (1129 DLP; 680 DLVN 1972): Đương sự lập ước phải nói rõ đối tượng là việc gì hay vật gì. Ví dụ trong khế ước mua bán, đối tượng có thể là một vật đã xác định rồi như bán chiếc xe M… cũng có thể đó là một vật tiêu phí, chưa phân tách trong một số vật giống nhau mà có thể phân tách được. Ví dụ như bán một số lượng lúa trong vựa lúa chẳng hạn, hay là một số lượng gạo trong một vựa gạo với số lượng là bao nhiêu kg, theo danh từ người ta thườn dùng trên thị trường là có thể xác định được. Khế ước không có giá trị nếu đương sự hứa bán một vật gì hay một số ượng hàng hóa không nói thuộc loại gì, không thể xác định được.

C_ CÁ TÍNH 3: Đối tượng có thể thực hiện được: Nếu hứa bán một vật mà không thể thực hiện được thì khế ước đó không có giá trị. Giáo sư Capitant cho ta một ví dụ là hứa bán một miếng đất trên mặt trăng. Tòa án Pháp quốc có xử một vụ kiện như sau: “Ở Pháp trước khi có chế độ tòng quân cưỡng bách, nghĩa là thann niên đến một số tuổi nào đó phải đi lính. Người ta thường ký với nhau những hợp đồg theo cách sau: Người bị chọn đi lính là kẻ nếu rút thăm trúng con số nào đó. Vì vậy nên một số con nhà khá giả muốn khỏi đi lính, thường tìm người thay thế mình bằng cách ký với người này một hợp đồng trước khi rút thăm. Hợp đồng định rằng sẽ trả cho người kia một số tiền nào đó, và người này sẽ đi lính thay nếu rút thăm trúng. Nếu không trúng thăm thì người kia vẫn được hưởng số tiền đã định trong hợp đồng. Trước đạo luật ngày 23-7-1872, khế ước này vẫn có giá trị, nhưng sau đó đạo luật đặt ra chế độ tòng quân cưỡng bách thì những khế ước đó bỗng nhiên không có giá trị nữa, bởi đối tượng không thể thực hei65n được: Mọi thanh niên tới một tuổi nào đó thì phải đi quân dịch và không thể nhờ một người khác thay thế mình được nữa.
Khi nào đối tượng xem như không thể thực hiện được, theo Tòa án là khi sức người không làm được.

D_ CÁ TÍNH 4: Vật chủ đích phải hợp pháp.
Có những vật không thể làm đối tượng cho một nghĩa vụ bởi trái với trật tự công cộng, nghịch lại với thuần phong mỹ tục.
1) Quan niệm trật tự chung hay thuần phong mỹ tục là một quan niệm là một quan niệm rất co giãn, khó mà định nghĩa một cách rõ rệt. Người ta coi như là nghịch lại với trật tự công cộng khi nào đối tượng phạm phải qui tắc bảo vệ quyền lợi quốc gia.
2) Nghịch lại với nguyên tắc tổ chức xã hội tổ chức chính quyền, về điều này tòa án có dịp áp dụng điểm này đối với những khế ước mà đối tượng bị đặt ngoài việc mậu dịch, ví dụ khế ước mà đối tượng là một công sản hay của hồi môn bất khả dĩ nhượng hoặc giả đối với những khế ước mà đối tượng là các cây thuốc độc hay là những thú vật đang bị bịnh truyền nhiễm.
Ngoài ra những khế ước chạm đến tự do cá nhân, tự do cần lao, tự do buôn bán, tự do thương mại, cũng không có giá trị, vì đối tượng nghịch lại với trật tự chung. Thí dụ: Khế ước cho thuê công thì người thuê công chỉ được quyền kết ước trong thời hạn nào đó. Thí dụ khế ước 5 năm hay 10 năm chứ không thể lập khế ước ở đợ trọn đời. Tòa án còn hủy bỏ những hợp đồng chạm đến công vụ hoặc chức tước hiện tại.Ví dụ hiện tại các vị thừa phát lại, chưởng khế không thể bán lại các chức vụ của họ, bởi vì được ông Bộ trưởng bổ nhiệm bằng một nghị định. Còn theo chế độ cũ trước kia, trước thời độc lập, thì những chức vụ thừa lại ví dụ như Trưởng tòa hay chức vụ Chưởng khế có thể được nhượng lại với một số tiền nào đó, bởi vì những chức vụ đó, chia làm hai phần: Một phần về tiền bạc một phần về tinh thần. Phần tinh thần là chứ thừa lại phải được chính quyền bổ nhiệm, phần tiền bạc: khách hàng văn phòng của ông Thừa phát lại có một giá trị về tiền bạc. Nhưng dù sao, dưới chế độ cũ, mặc dù có thể bán chức thừa lại nhưng cũng bị hạn chế và cũng bị kiểm soát một phần nào, vì chính quyền không muốn những vị thừa lại đó thừa dịp bán chức của mình một cách đắt đỏ mà phải lấy tiền của thân chủ quá số luật định. Ngoài ra người mua cũng phải hội đủ một số điều kiện khả năng trong chức vụ thừa phát lại.
Ngoài ra, những hợp đồng nghịch với luân lý như là khế ước giữa hai người tình nhân với nhau; ví dụ hai người nam nữ làm một khế ước, nếu người này ăn ở với người kia thì mỗi tháng sẽ được lãnh bao nhiêu tiền, hay sẽ được những lợi ích gì (hiện vật nào đó chẳng hạn) hoặc giả khế ước ăn huê hồng trong việc làm môi giới để người ta cưới hỏi nhau (…). Lần lần án lệ nới rộng phạm vi áp dụng quan niệm trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục, tòa án tiêu hủy những khế ước nghịch lại với tổ chức các công sở. (…).
Tòa án cũng tiêu hủy các khế ước mà mục đích trốn tránh sự giảm giá của đồng tiền của mình. Ví dụ trong thời gian mà đồng bạc sụt giá đáng sợ thì họ sẽ cam kết với nhau là trả tiền không căn cứ trên số tiền mà bằng hiện vật. Đó là khoản clause d’or. đồi với những khế ước môi giới cho việc cưới hỏi, lúc đầu tòa dễ dãi không tiêu hủy một cách máy móc để khuyến khích sự kết hôn. Án lệ phân biệt nếu trả công xứng đáng thì chuyện đó có giá trị, còn nếu đặt điều kiện là của hồi môn một triệu, người môi giới được 1/10 số tiền ấy thì ta thấy có sự trục lợi rõ rệt, tòa phản đối vì trái với trật tự công cộng. (…).

Các vị khai thừa kế khế ước:

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Nam Lua

Nam Lua

Bình luận

avatar