TINH THẦN VÀ PHƯƠNG PHÁP HỌC LUẬT
Học luật với tinh thần nào?
Học luật theo phương pháp nào?
Các sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa Đại Học Luật Khoa đều không khỏi băn khoăn với các vấn đề này, trước những pho sách gáy da dày cộm, những giảng văn tràng giang đại hải, khác hẳn với sách giáo khoa Trung học. Lối giảng dạy cũng mới lạ, chỉ gồm có những bài diễn thuyết của Giáo sư trong suốt buổi, sinh viên nào muốn nghỉ ở nhà hay đi học, cũng không một ai hỏi đến hay kiểm soát. Như vậy học luật, sinh viên có cần đến giảng đường theo học không? Và học Luật theo đường lối nào, với tinh thần nào? Trong suốt năm, sinh viên không có dịp làm bài, thì bài thi sẽ làm ra sao?
Những vấn đề này rất quan trọng đối với các sinh viên đã chọn con đường Luật học: Tuy nhiên trong thực tế, không có sách nào đề cập đến, để mặc sinh viên với thời gian và kinh nghiệm tự tìm lấy đường đi. Nhưng thực tế cũng đã chứng tỏ rằng vì thiếu sự hướng dẫn, một số lớn sinh viên đã bị thất bại chỉ vì lạc hướng ngay tự bước đầu. Để tránh cho sinh viên sự bỡ ngỡ trong buổi đầu, trong chương dẫn nhập này sẽ đề cập đến ba vấn đề chính yếu:
Đoạn I: Tinh thần học Luật;
Đoạn II: Phương pháp học Luật;
Đoạn III: Cách làm một bài khảo luận pháp lý.
ĐOẠN I: TINH THẦN HỌC LUẬT
Kể từ khi trường Luật Hà Nội di chuyển vào Saigon sau hiệp định Geneve 1954 đến nay, 20 năm đã trôi qua. Sĩ số từ 500 sinh viên đã vượt đến con số 20.000. Trong 20 năm nay, đa số các công chức và cán bộ cao cấp trong nước đã được Trường Luật đào tạo, không kể một số lớn các luật gia, thẩm phán, luật sư và chính trị gia. Những sự đóng góp của Trường Luật đối với xã hội Việt Nam chỉ có ý nghĩa, nếu sự học luật không phải nhằm mục đích làm công chức, vì guồng máy quốc gia không đủ chỗ để thâu nhận hàng năm tất cả các sinh viên tốt nghiệp. Học luật cũng không phải chỉ nhằm mục đích làm Luật sư, Thẩm phán, Giáo sư hay Chính trị gia, vì các số này cũng có hạn. Và nhất là vì học luật còn có mục đích cao xa hơn.
Học luật trước hết là để thấu hiểu tinh thần luật pháp, nghĩa là, tinh thần các quy tắc pháp lý đã được thảo soạn ra để duy trì trật tự và công lý trong xã hội. Học luật theo tinh thần ấy là tham dự vào công cuộc chung của cộng đồng quốc gia trong sự tạo lập trật tự và an lạc cho mọi người. Học luật với mục đích ấy, thì con số sinh viên tăng lên bao nhiêu, cũng chỉ là một điều đáng mừng cho dân tộc. Số người hiểu biết luật pháp chính là hàn thử biểu để đo mức khai triển của một quốc gia, vì số người này tăng cường sức mạnh tinh thần dân tộc. Chính vì ý nghĩ ấy, mà ngay trong Luât Gia Long, điều 59 nhan đề là “Giảng luật đọc lệnh“, đã quy định rằng: “Những luật lệnh của nhà nước, quan lại đều phải giảng đọc. Nếu không thông hiểu thì làm quan phải bị phạt không được lĩnh lương bổng, làm lại thì phải bị đánh trượng. Các người thợ làm nghề, nếu có ai hiểu được luật lệ thì khi phạm tội lầm lỡ, hay mắc tội liên lụy, đều được tha cho lần đầu …“.
Ý của nhà làm luật, trong Cổ Pháp, muốn khuyến khích việc học luật và hiểu luật trong các tầng lớp nhân dân, kể cả thợ thuyền, vì theo quan niệm cổ truyền thì “Tri pháp, Úy pháp“, nghĩa là, khi hiểu biết pháp luật thì sợ không dám làm điều phạm pháp và trật tự xã hội tự nhiên được tôn trọng. Một quan niệm tương tự cũng được chấp nhận trong giai đoạn hiện đại: “Nemo censetur ignorare legem” Tục dao la tinh này có nghĩa là: “Không ai được coi như không biết pháp luật” (Các tất tường pháp). Quan niệm này rất cần thiết trong xã hội hiện tại. Người công dân am hiểu luật pháp sẽ tôn trọng luật pháp và thiết tha bênh vực luật pháp, vì luật pháp là nền tảng để duy trì sự an ninh và thịnh vượng trong quốc gia. Hơn nữa, khi dân trí ý thức rõ rệt quyền lợi và nghĩa vụ do pháp luật hoạch định thì tình trạng này sẽ ngăn chặn được những sự lạm quyền và tham nhũng, thối nát, dưới mọi hình thức trong các giới chức hữu trách. Đi xa hơn nữa, sinh viên học luật sẽ làm quen với các lý tưởng tự do, dân chủ, công bằng xã hội, và các quyền căn bản của con người nói riêng, của dân tộc nói chung, để ý thức được con đường phải chọn trong cuộc tranh chấp ý thức hệ hiện tại đang bao trùm cả thế giới.
Nói tóm lại, sự phát triển của nền luật học sẽ nâng cao nhân phẩm của người dân bằng sự bảo vệ chính đáng các quyền lợi cá nhân cũng như các nhân quyền căn bản. Nền Luật học cũng đồng thời nâng cao đời sống cộng đồng của Quốc gia bằng sự tăng cường các lý tưởng công bằng, dân chủ và bảo đảm các quyền căn bản của dân tộc. Vì nền luật học, có một tầm quan trọng đặc biệt như vậy, nên một luật gia Tây phương đã có một nhận xét rất ý nhị: “Le droit mene à tout, à condition d’en sortir” (Luật học có thể đưa dẫn đến mọi nơi, nhưng trước hết cần phải học luật đến chốn). Vấn đề đáng lo ngại không phải là số sinh viên mỗi ngày một tăng ở Đại học Luật Khoa. Vấn đề cần chú trọng là các sinh viên biết phương pháp học luật để khỏi phí phạm thời giờ và đừng … “học đại” !
ĐOẠN II: PHƯƠNG PHÁP HỌC LUẬT
Phương pháp học luật không thể trình bày chi tiết trong một quyển Pháp luật nhập môn. Những trang sau đầy chỉ có mục đích thực tiễn tóm tắt những điều chỉ dẫn chính yếu cho các sinh viên năm thứ nhất, cử nhân Luật
Học luật không phải là cần học thuộc lòng, tỉ mỉ tất các những điều khoản đã được qui định về mỗi vấn đề. Học luật cũng không phải nhằm mục đích nhớ hết những hình phạt, những sự chế tài mà nhà lập pháp đã dự định mỗi khi có sự vi phạm luật pháp. Học luật đòi hỏi nhiều lý trí hơn là trí nhớ. Để thấu đáo được tinh thần của mỗi một điều luật của mỗi một định chế, học luật cần phải tập suy luận xác đáng và khai triển tột mức óc phê bình sáng suốt. Hơn tất cả các ngành học khác, luật khoa đòi hỏi áp dụng nguyên tắc: “Nhất dĩ quán chi” của Khổng Tử, đồng ý với ngạn ngữ của Việt Nam: “Suy một biết mười“.
Cần phải thoát ly được cái khuôn khổ khô khan của các điều luật để đạt được tinh thần của pháp luật, vì các điều khoản luật lệ, dù có đầy đủ, phức tạp đến đâu, cũng chưa dự liệu đủ tất cả các trường hợp trong thực tế. Hơn nữa, dù một bộ luật có hoàn bị trăm phần trong giai đoạn hiện tai, thì mai đây với các nhu cầu kinh tế, xã hội, chính trị mới, xuất hiện trong quốc gia theo đà phát triển không ngừng của nhân loại, nền pháp chế ấy cũng sẽ trở nên thiếu sót. Muốn bổ túc nền pháp chế ấy, không phải chỉ cần quay về quá khứ khơi đám tro tàn cảu những luật lệ đã lỗi thời, mà cần phải có óc suy luận, phê bình để khai phá những giải pháp thích đáng với hoàn cảnh mới.
Đối với sinh viên năm thứ nhất, có ba vấn đề quan trọng:
A. Cách dùng giảng văn; B. Cách ghi chép trong giảng đường; C. Phương pháp nghiên cứu bổ túc.
A. Cách dùng giảng văn:
Không gì tai hại hơn là những năm gần đây, trong giới sinh viên xuất phát một xu hướng học luật bằng những sách tóm lược. Sinh viên đã tự giam mình trong cái vỏ ốc hẹp hòi của những bài toát yếu nông cạn, thiếu sót và phản tinh thần luật học, vì phải vận dụng trí nhớ nhiều hơn là lý trí và óc phê bình. Không một sách nào có thể thay thế được các lời diễn giảng hùng hồn, sáng sủa và hấp dẫn của các Giáo sư. Bằng sự hùng biện sư phạm, Giáo sư có thể khai triển một vấn đề quan trọng dưới nhiều hình thái, với nhiều ví dụ cụ thể, tân kỳ, vui và dễ nhớ, cho đến khi các sinh viên hiểu thấu. Trong một quyền sách, tất nhiên thiếu hẳn các điểm đặc sắc này. Nhưng nếu không tới được trường để nghe Giáo sư diễn giảng, thì ít nhất các sinh viên cũng phải học theo các giảnh văn. Lẽ tất nhiên, sinh viên cũng phải làm các bài toát yếu để giúp trí nhớ. Nhưng bài toát yếu chỉ có thể do chính sinh viên làm lấy sau khi học bải kỹ càng, và thấu hiểu tinh thần của giảng văn, mới có ích lợi cho sinh viên. Toát yếu dài hay ngắn, tùy cách tóm lược của mỗi sinh viên, nhưng mục đích chính yếu của toát yếu là giúp cho sinh viên ba điều:
– Nhận rõ cách bố cục và mạch lạc trong bài học ;
– Nhận rõ các điểm chính yếu trong mỗi đoạn;
– Nhận rõ tinh thần các điều luật đã được nói tới trong bài học.
Làm lấy toát yếu, sinh viên phải chú trọng vào ba điểm này, và khi chú trọng làm nổi bật ba điểm ấy lên trong bài toát yếu, sinh viên đã gần như thuộc bài, vì đã nắm được then chốt của vấn đề. Chỉ riêng phương pháp ấy mới đem lại cho sinh viên các hương sắc huyền diệu của vườn bông Luật học: sinh viên sẽ không nhắm mắt trước vẻ đạp thiên nhiên dể chỉ mất thì giờ đi nhặt cành khô và hoa rụng. Một khi đã làm xong toát yếu, sinh viên sẽ dùng tài liệu ấy, thử một mình thuyết trình một cách sống động vấn đề đã học và sau đó sẽ đem sách ra kiềm soát lại kết quả. Nếu lần thuyết trình đầu tiên chưa mỹ mãn, sinh viên phải tập thuyết trình lại, cho đến khi tự xét là kết quả khả quan. Chỉ có lối học thông minh như vậy mới giúp sinh viên đạt được mục đích tối – yếu vừa hiểu luật lệ, vừa biết trình bày và trên phương diện thực tế, khỏi bị thất vọng trong kỳ thi cuối năm.
B. Cách ghi chép tóm lược trong giảng đường
Đối với các sinh viên có thể đến trường, nên chuẩn bị đọc trước các bài của Giáo sư giảng, như vậy sẽ theo hiểu sự diễn giảng dễ dàng hơn. Lẽ dĩ nhiên, ngồi trong giảng đường nghe Giáo sư diễn giảng, sinh viên thường bị thu hút bởi những lý luận hấp dẫn hoặc lý thuyết tân kỳ mà quên không ghi chép. Lối nghe giảng quá thụ động này không đem lại cho sinh viên ích lợi cụ thể, vì khi về nhà, những luận cứ cũng như nội dung lý thuyết sẽ tan ra mây khói. Trong trí óc, sinh viên chỉ còn nhớ vài ý niệm mông lung, mờ ảo. Vậy khi ngồi nghe Giáo sư giảng bài, sinh viên phải bắt trí óc làm viện tích cực, không thể có thái độ thụ động. Các sinh viên năm thứ nhất đi nghe diễn giảng, thường rất bỡ ngỡ không biết nên chép hết tất cả các lời của Giáo sư diễn giảng hoặc ghi chép những điều gì. Đây là cả một nghệ thuật và một bí quyết. Sinh viên không cần chép tất cả các lời của Giáo sư giảng dạy, vì có muốn cũng không chép hết kịp. Hơn nữa, Giáo sư trong khi diễn giảng thường khai triển một ý kiến dưới nhiều hình thức để các sinh viên lĩnh hội được dễ dàng. Do đó, các sinh viên phải chọn lựa các ý chính, ghi chép vắn tắt những đoạn cần thiết, dưới một hình thức thông minh, trong đó các ý chính được nổi bật, mạch lạc được sáng tỏ và tinh thần của qui tắc pháp lý hoặc của định chế được nhận rõ minh bạch.
Nhờ lối làm việc ấy, khi ra khỏi giảng đường, sinh viên có thể coi như thuộc bài và chỉ cần nhìn vào bản tóm lược, có thể nhớ lại và nhắc lại những lời giảng dạy của Giáo sư. Lẽ dĩ nhiên, các giảng văn vẫn là những tài liệu cần thiết để sinh viên kiểm soát xem còn có những khuyết điểm nào cần bổ túc.
C. Cách tìm khảo cứu các đề tài riêng biệt ngoài các giảng văn
Căn cứ vào các giảng văn để học tập cũng chỉ mới là một trong những công việc căn bản của một sinh viên học luật. Một giảng văn dù thâm cứu đến mức nào cũng không thể trình bày hết tất cả các sắc thái của các đề tài được giảng dạy. TRong giảng văn, vì không thể nào đề cập đến hết các chi tiết, nên thường dẫn chiếu thêm các sách phải tham khảo hoặc các bản án phải đọc. Tinh thần giảng huấn ở bậc Đại học khác hẳn ở bậc Trung học. Ở Đại học, sinh viên phải chính mình tham dự một phần tích cực vào sự trau dồi kiến thức. Sinh viên không thể hài lòng với thái độ thụ động, chỉ học hỏi và giam hãm óc tìm tòi trong khuôn khổ của các giảng văn. Trái lại, sinh viên, ngay từ năm thứ nhất ban Cử nhân phải có chí nuôi dưỡng óc hiếu học và khảo cứu. Mỗi khi giảng văn hay Giáo sư chỉ dẫn một đoạn sách hoặc một bản án, sinh viên phải cố gắng tìm cho được các tài liệu này để tham khảo. Các sinh viên ở xa, nhân dịp được lui tới trường, cũng phải đến thư viện mà thực hiện các công cuộc khảo cứu nói trên. Chỉ khi nào đã nghiên cứu thêm các bản án hay các bài khảo luận về một đề tài chuyên biệt, các sinh viên mới ý thức được tất cả các hình thái phong phú và phức tạp của vấn đề lý thuyết, hoặc trong trường đời. Chỉ khi nào học với tinh thần Đại Học này, sinh viên mới nhận thấy rõ ích lợi thật tế của luật pháp cũng như những sơ hở có thể có của luật pháp khiến cho các sự tranh tụng vẫn phát sinh trong xã hội. Học tập như vậy, sinh viên, ngay từ năm đầu, sẽ không học luật một cách lý thuyết mà đã làm quen với sự áp dụng luật pháp trong những trường hợp thực tế và tập nghiên cứu sâu rộng, trên phương diện lý thuyết, về một đề tài chuyên biệt.
ĐOẠN III: CÁCH LÀM MỘT BÀI KHẢO LUẬN PHÁP LÝ
Khi làm một bài khảo luận về pháp lý, bất luận là một bài thi hay một bài nghiên cứu pháp lý, cần phải xét bốn vấn đề chính yếu:
A. Tìm hiểu đề tài và hoạch định rõ phạm vi của đề tài.
B. Tìm kiếm tài liệu liên hệ đến nội dung đề tài cho đầy đủ và tìm cách bố cục hợp lý
C. Suy luận một cách chặt chẽ.
D. Trình bày một cách sáng sủa, dễ hiểu.
A. Việc làm thứ nhất của sinh viên là phải hiểu cho thật rõ đề tài, và hoạch định minh bạch phạm vi của bài khảo luận.
Đặc biệt, trong một bài thi viết ba giờ đồng hồ, dù thí sinh có thuộc bài, cũng phải dành 10 phút hoặc 15 phút để giải quyết vấn đề tìm hiểu đề tài và tránh khỏi lạc đề. Giờ thi có hạn, số trang do thí sinh viết được cũng không thể quá 10 hay 12 trang trong ba giờ đồng hồ. Do đó phải tránh mọi sự lạc đề làm cho sinh viên thiếu thì giờ để đề cập đến các điểm cần thiết. Các đề thi thường gồm có ba loại:
a) Loại đề thứ nhất là loại “đề tài học thuộc”, chỉ hỏi một vấn đề đã được giảng trong sách. Loại đề tài này không đòi hỏi nhiều ở sinh viên sự suy nghĩ. Sinh viên chỉ cần nhớ lài những điều đã học trong một đoạn của giảng văn. Vì thế sự hoạch định phạm vi của đề tài thường không nêu khó khăn nào đặc biệt. Những năm gần đây, vì muốn kiểm soát kiến thức của các sinh viên năm thứ nhất cử nhân về những vấn đề căn bản, các loại đề này thường được ra thi, nên sinh ra cái nạn “học tủ”. Một số thí sinh chỉ học các đề tài coi là chính yếu; nếu đề thi ra “ngoài tủ”, sinh viên sẽ đành chịu nộp giấy trắng. Nếu học tủ và nhờ vận may có trúng tuyển chăng nữa, sinh viên cũng không xứng đáng với mảnh bằng đã hú họa “cầu” được, như trong một canh bạc đỏ đen. Kiến thức pháp lý của sinh viên sẽ có nhiều lỗ trống và trong những năm sau, việc học của sinh viên sẽ gặp nhiều khó khăn, vì chương trình luật học có tính cách liên tục, không thể bỏ sót từng đoạn. Do đó, các sinh viên nào đỗ được năm thứ nhất theo lối học tủ cũng thường bị “lật đật trường ốc” trong các năm sau, không có gì lạ!
b) Loại đề tài thứ hai là loại “đề tài tổng hợp” bắt buộc sinh viên phải suy nghĩ kỹ đến tất cả sắc thái của vấn đề, để khỏi thiếu sót
Loại đề tài này còn đòi hỏi ở sinh viên một sự suy nghĩ chín chắn để hoạch định rõ rệt phạm vi của đề tài.
c) Loại đề thứ ba, khó khăn hơn một bậc nữa, đặt vấn đề so sánh giữa hai qui tắc pháp lý hoặc hai định chế pháp lý.
Muốn so sánh, tất nhiên phải hiểu rõ tất cả nội dung của mỗi qui tắc hoặc của mỗi định chế. Nói khác, sinh viên trước khi làm việc so sánh, phải tùy trường hợp, để dành thì giờ làm một công việc giống như trong hai loại đề tài trên; nghĩa là hoạch định rõ phạm vi của vấn đề cho mỗi quy tắc hay mỗi định chế cần phải so sánh.
Để sinh viên có một ý niệm cụ thể về các loại đề tài, thiết tưởng nêu một vài thí dụ được chọn ngay trong chương trình dân luật năm thứ nhất:
a) Thí dụ về loại đề tài học thuộc:
1. Tục lệ, nguồn gốc bổ sung của luật pháp;
2. Nhiệm vụ của án lệ;
3. Nhân trị chủ nghĩa.
Thí sinh sẽ nhận thấy các đề tài này đều được diễn giảng trong quyền Pháp luật lược khảo này. Lẽ dĩ nhiên, nếu thí sinh thuộc bài không cần phải suy nghĩ nhiều về phạm vi của mỗi đề tài.
b) Thí dụ về loại đề tài tổng hợp: “Sự lầm lẫn trong giá thú”: Dưới một hình thức rộng rãi như vậy, đề tài này gồm hai phần đã được đề cập tới trong hai chương khác nhau trong quyền Luật Gia Đình: a) Thế nào là lầm lẫn trong giá thú? b) Sự chế tài các trường hợp lầm lẫn trong giá thú giải quyết như thế nào? Nếu sơ ý, không suy nghĩ kỹ về phạm vi của đề tài, một thí sinh thiếu kinh nghiệm, dù có thuộc bài, nhiều khi cũng chỉ làm nửa bài và quên không nói đến vấn đề chế tài.
c) Thí dụ về loại đề tài so sánh: “So sánh vai trò của pháp luật trong nhân trị và pháp trị chủ nghĩa”.
Thí sinh phải thấu hiểu triệt để hai lý thuyết nói trên mới có thể so sánh được. Đại ý là theo nhân trị chủ nghĩa không cần đến pháp luật; chỉ cần “Lễ” và “Nhạc” để giáo hóa con người thành thánh nhân quân tử, thì trật tự xã hội sẽ được tự nhiên điều hòa theo thiên ý. Trái lại, theo pháp trị chủ nghĩa, nhà cầm quyền phải làm ra nhiều luật, đặt ra nhiều hình phạt nghiêm khốc để giữ cho ta khỏi phạm pháp vì tính con người vốn ác, không thể dùng lễ nhạc mà uốn nắn được. Lẽ dĩ nhiên, hai loại đề tài sau là những thử thách để đo lường kiến thức pháp lý cũng như trí xet đoàn thông minh của thí sinh; nhưng dù sao cũng chỉ liên hệ đến các vấn đề đã được giảng dạy trong chương trình.
B. Tìm tài liệu liên hệ đến nội dung của đề tài và tìm một cách bố cục hợp lý
Tìm hiểu đề tài về nội dung tài liệu nội dung, lẽ dĩ nhiên, là một công việc làm của trí nhớ. Nhiều thí sinh quá tin cậy vào ký ức, nhất là trong trường hợp gặp một đề tài đã được học thuộc, vội vàng cắm đầu làm bài, không suy nghĩ. Trong sự vội vàng này, thí sinh rất dễ thiếu sót một vài đoạn, và khi nhận ra sự thiếu sót hoặc phải chép lại bài, hoặc đành hối tiếc bỏ hẳn vì không có thì giờ chép lại. Vì vậy, trong bất luận trường hợp nào, sau khi đã hiểu đề tài, sinh viên phải tóm tắt trên một tờ giấy, những ý kiến phải trình bày hay những vấn đề cần phải được đề cập. Các ý và các vấn đề này, có thể ghi một cách không có thứ tự, tùy theo nguồn hứng tư tưởng.
Sau khi đã xét rằng các điểm nói trên đã tạm đủ, thí sinh phải tìm một lối bố cục để trình bày bài khảo luận một cách sáng sủa và hợp lý. Cách bố cục một bài khảo luận có tính cách cần thiết cũng như họa đồ kiến trúc. Nếu có những ngôi nhà xây tốn vật liệu và tiền bạc mà không đẹp, thì cũng có những bài khảo luận nội dung phong phú mà trình bày lộn xộn, làm nhức đầu độc giả, vì một vấn đề có khi được nhắc đi nhắc lại trong nhiều đoạn, không có thứ tự và khó hiểu. Tìm cách bố cục cho một bài khảo luận, cũng như vẽ một bức họa kiến trúc: lối bố cục phải phù hợp với đề tài, mới khai triển được tất cả các sắc thái của vấn đề. Chỉ có kinh nghiệm mới có thể giúp cho sinh viên dần dần giải quyết được khó khăn này. Vì vậy, trong khi học tập và tóm lược các giảng văn, sinh viên viên phải chú trọng đến cách bố cục của mỗi bài giảng. Suy nghĩ về các mẫu mực bố cục ấy, sinh viên sẽ làm quen với cách chia mạch lạc trong mỗi bài khảo luận và cách xếp đặt các đoạn thế nào cho hợp lý, không trùng điệp mà còn đưa dẫn tự nhiên đến kết quả mong muốn.
Thật vậy, không phải chỉ có mục đích duy nhất chia bài ra làm nhiều đoạn, cách bố cục còn nhằm mục đích xếp các ý kiến trình bầy theo một thứ tự hợp lý và đi đến kết luận chờ đợi. Tìm cách bố cục cho một bài khảo luận, cũng như tìm một lịch trình hợp lý cho một cuộc du lịch từ tỉnh A đến tỉnh B, phải đi theo đường nào cho vừa tiện, vừa nhanh và vừa đẹp. Một bài khảo luận thường gồm có hai phần hoặc ba phần. Lối bố cục giản dị nhất là chia bài làm hai phần, mỗi phần gồm có hai hoặc ba đoạn con. Nhưng cũng có thể chia bài làm ba phần hoặc bốn phần. Tuy nhiên, không nên chấp nhận những lối bố cục quá phức tạp gồm năm, sáu phần.
Các sinh viên có thể nhận thấy trong quyền Pháp Luật Thông Khảo và Việt Nam Dân Luật Lược Khảo, các Chương hoặc Tiết đều theo lối bố cục đơn giản nói trên. Thí dụ: Cách bố cục trong bài Quan Niệm cổ truyền về Pháp luật Đông phương (Xem trong Pháp Luật Tổng Luận):
– Phần dẫn nhập: Có hai quan niệm về pháp luật ở Đông phương;
– Đoạn thứ nhất: Nhân trị chủ nghĩa
I. Tại sao có quan niệm nhân trị?
II. Làm thế nào để tu thân theo quan niệm Nhân Trị: Lễ và Nhạc.
III. Quan niệm Nhân trị thu hẹp phạm vi luật pháp;
– Đoạn thứ hai: Pháp Trị chủ nghĩa
I. Các đại biểu của phái Pháp gia và Hàn Phi Tử
II. Đại cương của chủ nghĩa Pháp trị và thuyết của Hàn phi.
III. Phê bình về Pháp trị chủ nghĩa và học thuyết của Hàn phi.
Kết luận: Ư thế của nhân trị chủ nghĩa ở Đông phương. Nhưng mỗi pháp chế thường chịu ảnh hưởng cả hai quan niệm.
C. Suy luận một cách chặt chẽ
Khi tìm kiếm cách bố cục cho bài khảo luận, sinh viên đã phải vận dụng tích cực óc suy luận để tìm được một cách xếp đặt các mạch lạc hợp lý, lôi cuốn một cách hấp dẫn người đọc từ đoạn này sang đoạn khác, và đưa tự nhiên đến kết quả mà người viết mong muốn rằng người đọc phải chấp nhận. Trong mỗi một đoạn của bài thi hoặc bài khảo luận, phương pháp suy đoán nói trên cũng phải được áp dụng triệt để? Các ý kiến và lý lẽ phải nối tiếp nhau hợp lý, kết thành như một bản biện minh cho điều mà người viết muốn chủ trương.
Đối với các bài thi, đề tài thường chọn trong các giảng văn; vì vậy, các sinh viên thường không phải mất nhiều thì giờ để tìm kiếm một lối suy luận độc đáo. Nhưng khi phải làm một bài khảo luận về một đề tài không có trong giảng văn, sinh viên phải đương đầu với những khó khăn nói trên. Các lối suy luận sẽ được ban tối trong sách này, trong chương nói về các phương pháp giải thích luật pháp, như phương pháp suy diễn và qui nạp, phương pháp suy luận loại tỷ, phương pháp suy luận đối nghịch …v….v.
D. Trình bày một cách sáng sủa dễ hiểu
Người ta thường có một quan niệm không mấy tốt đẹp đối với các luật gia, khi cho rằng văn chương và ngôn ngữ của luật gai thật là bí hiểm, khó hiểu. Sự thật, khoa học nào chẳng có những từ ngữ chuyên khoa riêng biệt? Mỗi một từ ngữ khoa học bắt buộc phải tương ứng với một ý niệm chính xác. Pháp luật cũng là một khoa học, do đó bắt buộc cũng phải có những danh từ chuyên biệt như thành niên, vị thành niên, phụ hệ, mẫu hệ, giám hộ v.v… Nhưng ngoài những danh từ chuyên môn này mà luật gia nào cũng không thể tránh được, sự trình bày một vấn đề pháp lý cũng tương tự như sự trình bày một vấn đề văn chương hay về bất cứ khoa học xã hội nào khác. Lời văn không được viết cẩu thả. Phải giản dị, trong sáng. Phải tránh những sáo ngữ, những lối trình bày tầm thường, luộm thuộm hay bí hiểm, tối mò. Viết một bài khảo luận pháp lý bằng tiếng Việt là cả một công trình. Trong hầu hết các trường hợp, tác giả bắt buộc phải sáng tạo, không có nhiều bài khảo cứu khác để tham khảo vì nền học lý Việt Nam còn ở tình trạng phôi thai, hết sức nghèo nàn.
Lẽ dĩ nhiên, lời văn chỉ để phô diễn các ý tứ sẵn có. Vì vậy, nếu ý tứ chưa được rõ rệt, thì lời văn cũng lúng túng da danh từ cũng không được chính xác. Khi nào sinh viên nhận thấy một đoạn văn, hoặc một câu văn không sáng sủa, khó hiểu, tức thị là ý nghĩa trong đầu óc chưa được rõ rệt, và cần phải định thần tự vấn mình muốn viết lên ý nghĩ gì. Nếu bài khảo luận về luật phải khúc chiết và lý luận, thì lối hành văn cũng phải phục vụ mục đích thiết yếu này. Mỗi câu văn, dài hay ngắn, phải phô diễn một ý cho trọng nghĩa. Đừng khi nào viết những câu văn lơ lửng, vô nghĩa hoặc phi lý làm hại đến sự suy luận hoặc sự trình bày. Tất cả các câu văn trong mỗi đoạn của bài khảo luận phải liên hệ với nhau, với mục đích trình bày cho trọn một vấn đề trong đoạn ấy.
Sinh viên đừng quên viết chữ lớn và gạch cho nổi bật các tiêu đề của mỗi đoạn hay mỗi phần trong bài khảo luận. Sinh viên cũng có thể gạch thêm các câu hoặc các danh từ cần thiết trong mỗi đoạn, như đục thêm cửa sổ cho một căn phòng thêm ánh sáng. Sinh viên hãy bỏ hết mặc cảm của ột học sinh Trung học sợ bị kết tội đánh dấu bài thi, khi gạch như vậy các tiêu đề hay các câu hoặc các danh từ quan trọng. Không còn gì mệt hơn cho các Giáo sư khi phải đọc các bài thi dài hàng chục trang giấy, không phẩy, không chấm, không xuống dòng … Bài khảo luận viết như vậy không khác nào như nhà tù xây tường kín mít, không để ánh sáng xuyên qua một kẽ hở, giam chặt kín tất cả tư tưởng của thí sinh, khiến người đọc không hiểu nổi ý kiến được trình bày. Trường hợp những bài thi này không phải là hãn hữu, và dù nội dung co đúng cũng bị trừ nhiều điểm vì lối trình bày thiếu phương pháp và bí hiểm.
***
Cách bố cục, phương pháp suy luận, lối hành văn sáng sủa, giản dị, khi thanh nhã, khi đanh thép, chọn từng danh từ cho chính xác và hợp lý, là những tiêu chuẩn đề đo lường giá trị của một bài khảo luận về pháp luật. Sinh viên đừng đợi đến ngày thi mới thực hành những điều khuyên đã được tóm lược trong chương này. Trái lại, hằng ngày mỗi khi đọc một bài trong bất cứ giảng văn nào, sinh viên cũng phải chú trọng vào các tiêu chuẩn nói trên mới có thể dần dần thấm nhuần kỹ thuật của ngành luật học, một kỹ thuật đòi hỏi nhiều lý trí hơn là ký ức, nhiều suy luận hơn là sự chấp nhận thụ động. Học luật sở dĩ say mê, chính vì con người tuy chỉ là một cây sậy yếu đuối nhưng biết suy nghĩ, để đem tri thức phục vụ công lý và khắc phục bạo lực trong xã hội./.
Bình luận