HÀNH VI PHÁP LÝ – SỰ KIỆN PHÁP LÝ
Định hướng chung
I. NHẬN XÉT
Qua nghiên cứu cách hiểu của Cộng đồng châu Âu và cách hiểu quốc tế, qua phân tích so sánh, người ta nhận thấy việc phân biệt hai thuật ngữ hành vi pháp lý và sự kiện pháp lý là rất khác nhau trong các hệ thống pháp luật về nghĩa vụ ở các quốc gia. Trong cách hiểu của Cộng đồng châu Âu và cách hiểu quốc tế, việc phân biệt hai thuật ngữ này không mấy khi được sử dụng với tư cách như vốn có, hiển nhiên là vì pháp luật hiện hành điều chỉnh vấn đề này không mấy bận tâm đến việc thiết lập một bộ luật điều chỉnh nghĩa vụ nói riêng. Sự phân biệt này chủ yếu được đón nhận ở Pháp và các nước có hệ thống luật thành văn. Đặc biệt ở Pháp, việc phân biệt này gần đây đã được tái khẳng định trong sơ thảo dự án cải cách luật nghĩa vụ và luật thời hiệu (sơ khảo luật của Pháp): Nó được coi là xương sống của pháp luật về nghĩa vụ.
II. LỢI ÍCH CỦA VIỆC PHÂN BIỆT
Việc phân biệt giữa hành vi pháp lý và sự kiện pháp lý cho phép xây dựng một cách phân loại các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ: Tùy thuộc vào việc nghĩa vụ đó phát sinh từ một hành vi pháp lý hay một sự kiện pháp lý, nó sẽ được điều chỉnh bởi một chế định khác nhau. Nhằm mục đích soạn thảo các nguyên tắc châu Âu của luật hợp đồng, cần phải phân biệt rõ hai thuật ngữ này về mặt học thuật: Quả thật, chúng ta cần tự hỏi phải chăng khái niệm hợp đồng là khái niệm đơn nghĩa, được điều chỉnh bởi những nguyên tắc đặc thù, trong mọi hệ thống pháp luật quốc gia cũng như trong cách hiểu của Cộng đồng châu Âu và quốc tế.
Trong pháp luật của Pháp, việc phân biệt hành vi pháp lý với sự kiện pháp lý là cốt lõi: Về cơ bản, nó nhằm mục đích sắp xếp các định chế khác nhau, được hình thành trên vai trò của ý chí, như Sơ thảo dự luật của Pháp gần đây đã thể hiện. Hành vi pháp lý được định nghĩa trong điều 1101-1 như “hành vi xuất phát từ ý chí của chủ thể nhằm làm phát sinh các hệ quả pháp lý“, trong khi điều 1101-2 định nghĩa sự kiện pháp lý như “các sự kiện, hiện tượng làm phát sinh các hệ quả pháp lý theo quy định của pháp luật“. Tuy nhiên, Sơ thảo dự luật Pháp cũng nói rõ “hợp đồng là hành vi pháp lý phổ biến nhất” trong số các hành vi pháp lý. Đó cũng chính là thực trạng của pháp luật hiện hành, luôn đặt lên trước khái niệm hợp đồng, nhiều hơn so với khái niệm hành vi pháp lý dù rằng khái niệm hành vi pháp lý là tổng quát hơn.
Trong các hệ thống pháp luật khác, những cách phân biêt về mặt hình thức gần với quan điểm thuật ngữ học đã được thiết lập, cho dù không nhằm tổ chức một cách có hệ thống các chế định nhằm điều chỉnh cac loại nghĩa vụ khác nhau đã được biết đến. Ví dụ, pháp luật Ý dùng từ “fatto giuridio” (Sự kiện pháp lý) bao hàm, theo nghĩa rộng, “l’atto giuridio” (hành vi pháp lý). Loại thứ hai này bao gồm chủ yếu là các “negozio giuridico”, thuật ngữ này gần với từ “hành vi pháp lý” được hiểu theo nghĩa hẹp trong pháp luật của Pháp. Pháp luật Đức lại mô tả như là một loại chính các hành vi pháp lý (“Rechtsgeschaft”, phân biệt với hành vi thực tế (“Realakte”) và các hành vi được coi như là hành vi pháp lý (“geschaftsahnliche Handlungen”). Luật pháp Đức còn e dè trong việc thiết lập các cách phân loại mà pháp luật coi như công cụ để miêu tả hơn là để định dạng các loại khác nhau trên phương diện định chế pháp lý. Những ví dụ trên đây chỉ ra rằng các các phân loại hiện đại của rất nhiều hệ thống pháp luật khác xa so với cách phân loại trong pháp luật Pháp, và đặc biệt là sự phân biệt giữa hành vi pháp lỳ và sự kiện pháp lý.
Trong cách hiểu của Cộng đồng châu Âu và quốc tế, cụm từ “sự kiện pháp lý” không xuất hiện: theo truyền thống, người ta thường đặt loại hợp đồng đối lập với loại trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (“tort”). Hậu quả là đặt ra vấn đề có nên duy trì sự phân biệt giữa hành vi pháp lý và sự kiện pháp lý, vấn đề càng bức thiết vì trong pháp luật Pháp, tự nguyện cam kết như hợp đồng nổi lên như một loại độc lập, điều này có thể chứng minh một cách phân loại khác.
III. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc xác định căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ – hợp đồng, tự nguyện cam kết như hợp đồng, hay hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng – được đặt ra một cách trừu tượng và hiển nhiên hay đôi khi nó dựa trên những căn cứ vụ việc đơn thuần?
Chúng ta có cần thiết phải thực hiện, như gợi ý của Quy định số 864/2007 ban hành ngày 11/7/2007 về luật áp dụng cho nghĩa vụ phát sinh ngoài hợp đồng (“Quy định Rôm II”), một sự phân biệt giữa hai thuật ngữ là “nghĩa vụ hợp đồng” và “nghĩa vụ ngoài hợp đồng”, mà vẫn giữ sự phân biệt trong loại thứ hai này các loại nghĩa vụ ngoài hợp đồng phát sinh từ một hành vi gây thiệt hại và nghĩa vụ phát sinh từ một sự kiện khác với hành vi gây thiệt hại (tự nguyện cam kết như hợp đồng)? Có thể sự phân biệt này ăn khớp với sự phân biệt giữa hành vi pháp lý và sự kiện pháp lý. Hay là liệu chúng ta có thể, theo cách của pháp luật Anh, duy trì cách phân loại theo ba loại là hợp đồng, tự nguyện cam kết như hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng?./.
Bình luận