Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

1. Công ước về đại lý trong việc bán hàng hóa quốc tế (Geneva, 1983)

CÔNG ƯỚC VỀ ĐẠI LÝ TRONG VIỆC BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ (GENEVA, 1983)

Công ước về đại lý trong mua bán hàng hóa quốc tế
(Geneva, ngày 17 tháng 2 năm 1983)

CÁC QUỐC GIA BÊN THAM GIA CÔNG ƯỚC NÀY,

MONG MUỐN thiết lập các quy định chung liên quan đến đại lý trong việc bán hàng hóa quốc tế,

NHỚ đến các mục tiêu của Công ước Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,

XEM XÉT rằng sự phát triển của thương mại quốc tế trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi là một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia, lưu ý đến Trật tự kinh tế quốc tế mới,

THEO Ý KIẾN rằng việc áp dụng các quy tắc thống nhất chi phối hoạt động đại lý trong việc bán hàng hóa quốc tế và tính đến các hệ thống xã hội, kinh tế và pháp lý khác nhau sẽ góp phần xóa bỏ các rào cản pháp lý trong thương mại quốc tế và thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế,

ĐÃ THỎA THUẬN như sau:

CHƯƠNG I – PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

(1) Công ước này áp dụng khi một người, đại lý, có thẩm quyền hoặc có ý định có thẩm quyền thay mặt cho một người khác, người chủ thể, để ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với bên thứ ba.

(2) Nó không chỉ điều chỉnh việc ký kết hợp đồng như vậy của đại lý mà còn điều chỉnh bất kỳ hành vi nào do đại lý thực hiện nhằm mục đích ký kết hợp đồng đó hoặc liên quan đến việc thực hiện hợp đồng.

(3) Chỉ liên quan đến mối quan hệ giữa bên chủ thể hoặc bên đại lý một bên và bên thứ ba bên kia.

(4) Điều này áp dụng bất kể người đại diện hành động nhân danh chính mình hay nhân danh người ủy quyền.

Điều 2

(1) Công ước này chỉ áp dụng khi bên chính và bên thứ ba có địa điểm kinh doanh ở các quốc gia khác nhau và:

(a) đại lý có địa điểm kinh doanh tại một Quốc gia ký kết, hoặc

(b) các quy tắc của luật pháp quốc tế tư nhân dẫn đến việc áp dụng luật pháp của một Quốc gia ký kết.

(2) Trường hợp tại thời điểm ký kết hợp đồng, bên thứ ba không biết hoặc không nên biết rằng đại lý đang hoạt động với tư cách là đại lý, thì Công ước chỉ áp dụng nếu đại lý và bên thứ ba có địa điểm kinh doanh ở các quốc gia khác nhau và nếu các yêu cầu của khoản 1 được đáp ứng.

(3) Không được xem xét đến quốc tịch của các bên, tính chất dân sự hoặc thương mại của các bên hoặc của hợp đồng mua bán khi xác định việc áp dụng Công ước này.

Điều 3

(1) Công ước này không áp dụng cho:

(a) đại lý của một nhà kinh doanh trên sàn giao dịch chứng khoán, hàng hóa hoặc sàn giao dịch khác;

(b) đại lý của người đấu giá;

(c) đại lý thông qua hoạt động pháp lý trong luật gia đình, trong luật tài sản hôn nhân hoặc trong luật thừa kế;

(d) cơ quan phát sinh từ sự cho phép theo luật định hoặc tư pháp để hành động thay cho một người không có năng lực hành vi;

(e) cơ quan theo quyết định của cơ quan tư pháp hoặc bán tư pháp hoặc chịu sự kiểm soát trực tiếp của cơ quan đó.

(2) Không có điều gì trong Công ước này ảnh hưởng đến bất kỳ quy tắc pháp luật nào nhằm bảo vệ người tiêu dùng.

Điều 4

Vì mục đích của Công ước này:

(a) một cơ quan, viên chức hoặc đối tác của một công ty, hiệp hội, quan hệ đối tác hoặc thực thể khác, bất kể có tư cách pháp nhân hay không, sẽ không được coi là đại lý của thực thể đó trong chừng mực, khi thực hiện các chức năng của mình với tư cách là như vậy, người đó hành động theo thẩm quyền được trao theo luật hoặc theo các văn bản thành lập của thực thể đó;

(b) người được ủy thác không được coi là đại lý của quỹ tín thác, của người đã tạo ra quỹ tín thác hoặc của người thụ hưởng.

Điều 5

Người đứng đầu hoặc một đại lý hành động theo hướng dẫn rõ ràng hoặc ngụ ý của người đứng đầu có thể đồng ý với bên thứ ba để loại trừ việc áp dụng Công ước này hoặc, tùy thuộc vào Điều 11, để giảm bớt hoặc thay đổi hiệu lực của bất kỳ điều khoản nào của Công ước này.

Điều 6

(1) Trong việc giải thích Công ước này, cần phải xem xét đến tính chất quốc tế của Công ước và nhu cầu thúc đẩy tính thống nhất trong việc áp dụng Công ước và tuân thủ nguyên tắc thiện chí trong thương mại quốc tế.

(2) Các câu hỏi liên quan đến các vấn đề được Công ước này điều chỉnh mà không được giải quyết rõ ràng trong đó sẽ được giải quyết theo các nguyên tắc chung mà Công ước này dựa trên hoặc, trong trường hợp không có các nguyên tắc như vậy, sẽ được giải quyết theo luật áp dụng theo các quy tắc của luật pháp quốc tế tư nhân.

Điều 7

(1) Người chủ hoặc người đại diện một bên và bên thứ ba bên kia bị ràng buộc bởi bất kỳ tập quán nào mà họ đã đồng ý và bởi bất kỳ thông lệ nào mà họ đã thiết lập giữa họ.

(2) Họ được coi là, trừ khi có thỏa thuận khác, đã ngụ ý áp dụng vào quan hệ của họ bất kỳ tập quán nào mà họ biết hoặc đáng lẽ phải biết và trong thương mại quốc tế, được các bên trong quan hệ đại lý biết đến rộng rãi và thường xuyên tuân thủ theo loại hình liên quan đến thương mại cụ thể có liên quan.

Điều 8

Vì mục đích của Công ước này:

(a) nếu một bên có nhiều hơn một địa điểm kinh doanh, địa điểm kinh doanh là địa điểm có mối quan hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng bán hàng, có tính đến các tình huống mà các bên biết hoặc dự kiến ​​tại thời điểm ký kết hợp đồng;

(b) nếu một bên không có địa điểm kinh doanh thì phải tham chiếu đến nơi cư trú thường xuyên của bên đó.

CHƯƠNG II – THÀNH LẬP VÀ PHẠM VI QUYỀN HẠN CỦA ĐẠI DIỆN 

Điều 9

(1) Việc ủy ​​quyền của người đại diện cho người đại diện có thể là rõ ràng hoặc ngụ ý.

(2) Người đại diện có thẩm quyền thực hiện mọi hành vi cần thiết trong hoàn cảnh để đạt được mục đích mà ủy quyền đã được trao.

Điều 10

Sự cho phép không cần phải được đưa ra hoặc chứng minh bằng văn bản và không phải tuân theo bất kỳ yêu cầu nào khác về hình thức. Nó có thể được chứng minh bằng bất kỳ phương tiện nào, bao gồm cả nhân chứng.

Điều 11

Bất kỳ quy định nào của Điều 10, Điều 15 của Chương IV cho phép ủy quyền, phê chuẩn hoặc chấm dứt thẩm quyền được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào khác ngoài hình thức văn bản đều không áp dụng khi người đứng đầu hoặc đại lý có địa điểm kinh doanh tại một Quốc gia ký kết đã tuyên bố theo Điều 27. Các bên không được làm giảm hoặc thay đổi hiệu lực của đoạn này.

CHƯƠNG III – HIỆU LỰC PHÁP LÝ CỦA CÁC HÀNH VI DO NGƯỜI ĐẠI DIỆN THỰC HIỆN 

Điều 12

Trong trường hợp người đại diện hành động thay mặt cho người ủy quyền trong phạm vi thẩm quyền của người đó và bên thứ ba biết hoặc đáng lẽ phải biết rằng người đại diện đang hành động với tư cách là người đại diện, thì hành động của người đại diện sẽ ràng buộc trực tiếp người ủy quyền và bên thứ ba với nhau, trừ khi hoàn cảnh của vụ việc cho thấy, ví dụ, khi tham chiếu đến hợp đồng hoa hồng, rằng người đại diện cam kết chỉ ràng buộc chính mình.

Điều 13

(1) Trường hợp người đại diện hành động thay mặt cho người ủy quyền trong phạm vi thẩm quyền của mình thì hành động của người đại diện chỉ ràng buộc người đại diện và bên thứ ba nếu:

(a) bên thứ ba không biết hoặc không nên biết rằng người đại diện đang hành động như một người đại diện, hoặc

(b) từ các tình tiết của vụ việc, ví dụ như khi tham chiếu đến hợp đồng hoa hồng, có thể suy ra rằng người đại lý chỉ cam kết ràng buộc chính mình.

(2) Tuy nhiên:

(a) khi người đại diện, cho dù do bên thứ ba không thực hiện hoặc vì bất kỳ lý do nào khác, không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên ủy quyền, bên ủy quyền có thể thực hiện đối với bên thứ ba các quyền mà người đại diện đã có được thay mặt cho bên ủy quyền, tùy thuộc vào bất kỳ biện pháp phòng vệ nào mà bên thứ ba có thể đưa ra đối với người đại diện;

(b) khi người đại diện không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên thứ ba, bên thứ ba có thể thực hiện đối với bên ủy quyền các quyền mà bên thứ ba có đối với người đại diện, tùy thuộc vào bất kỳ biện pháp phòng vệ nào mà người đại diện có thể đưa ra đối với bên thứ ba và người ủy quyền có thể đưa ra đối với người đại diện.

(3) Các quyền theo khoản 2 chỉ có thể được thực hiện nếu thông báo về ý định thực hiện các quyền đó được gửi cho đại lý và bên thứ ba hoặc người đứng đầu, tùy từng trường hợp. Ngay khi bên thứ ba hoặc người đứng đầu nhận được thông báo như vậy, anh ta không còn có thể giải thoát mình khỏi các nghĩa vụ của mình bằng cách giao dịch với đại lý.

(4) Trường hợp bên đại lý không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên thứ ba do bên ủy quyền không thực hiện thì bên đại lý phải thông báo tên của bên ủy quyền cho bên thứ ba.

(5) Trường hợp bên thứ ba không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng với bên đại lý thì bên đại lý phải thông báo tên bên thứ ba cho bên giao đại lý.

(6) Người đại diện không được thực hiện đối với bên thứ ba các quyền mà người đại diện đã có được thay mặt cho mình nếu xét theo các tình tiết của vụ việc, bên thứ ba, nếu biết danh tính của người đại diện, sẽ không ký kết hợp đồng.

(7) Một đại lý có thể, theo hướng dẫn rõ ràng hoặc ngụ ý của người đại diện, đồng ý với bên thứ ba để miễn trừ hoặc thay đổi hiệu lực của đoạn 2.

Điều 14

(1) Trường hợp người đại diện hành động mà không có thẩm quyền hoặc hành động ngoài phạm vi thẩm quyền thì hành động của người đại diện không ràng buộc người được đại diện và bên thứ ba với nhau.

(2) Tuy nhiên, khi hành vi của người ủy quyền khiến bên thứ ba có lý do chính đáng và thiện chí tin rằng người đại diện có thẩm quyền hành động thay mặt cho người ủy quyền và rằng người đại diện đang hành động trong phạm vi thẩm quyền đó, thì người ủy quyền không được viện dẫn việc người đại diện không có thẩm quyền đối với bên thứ ba.

Điều 15

(1) Hành vi của người đại diện hành động không có thẩm quyền hoặc hành động ngoài phạm vi thẩm quyền có thể được người đại diện phê chuẩn. Khi phê chuẩn, hành vi đó có hiệu lực như thể ban đầu được thực hiện có thẩm quyền.

(2) Trường hợp, tại thời điểm hành động của đại lý, bên thứ ba không biết hoặc không nên biết về việc thiếu thẩm quyền, bên thứ ba sẽ không phải chịu trách nhiệm với người ủy quyền nếu, tại bất kỳ thời điểm nào trước khi phê chuẩn, bên thứ ba thông báo về việc từ chối bị ràng buộc bởi việc phê chuẩn. Trường hợp người ủy quyền phê chuẩn nhưng không làm như vậy trong thời gian hợp lý, bên thứ ba có thể từ chối bị ràng buộc bởi việc phê chuẩn nếu bên thứ ba thông báo kịp thời cho người ủy quyền.

(3) Tuy nhiên, nếu bên thứ ba biết hoặc đáng lẽ phải biết về việc đại lý không có thẩm quyền, bên thứ ba không được từ chối bị ràng buộc bởi việc phê chuẩn trước khi hết thời hạn đã thỏa thuận để phê chuẩn hoặc nếu không thỏa thuận được, thời hạn hợp lý mà bên thứ ba có thể chỉ định.

(4) Bên thứ ba có thể từ chối chấp nhận phê chuẩn một phần.

(5) Việc phê chuẩn có hiệu lực khi thông báo đến bên thứ ba hoặc việc phê chuẩn được bên thứ ba biết đến. Khi có hiệu lực, nó không thể bị thu hồi.

(6) Việc phê chuẩn có hiệu lực mặc dù bản thân hành động đó không thể được thực hiện hiệu quả vào thời điểm phê chuẩn.

(7) Trường hợp hành vi được thực hiện thay mặt cho một công ty hoặc pháp nhân khác trước khi thành lập thì việc phê chuẩn chỉ có hiệu lực nếu được luật của Nhà nước quản lý việc thành lập công ty hoặc pháp nhân đó cho phép.

(8) Việc phê chuẩn không phụ thuộc vào bất kỳ yêu cầu nào về hình thức. Nó có thể được thể hiện rõ ràng hoặc có thể được suy ra từ hành vi của người đứng đầu.

Điều 16

(1) Người đại diện hành động khi không được ủy quyền hoặc hành động ngoài phạm vi ủy quyền của mình, nếu không được phê chuẩn, sẽ phải chịu trách nhiệm trả cho bên thứ ba khoản bồi thường để đưa bên thứ ba vào cùng một vị trí như bên thứ ba sẽ có nếu người đại diện hành động theo ủy quyền và trong phạm vi ủy quyền của mình.

(2) Tuy nhiên, người đại diện không phải chịu trách nhiệm nếu bên thứ ba biết hoặc đáng lẽ phải biết rằng người đại diện không có thẩm quyền hoặc đang hành động ngoài phạm vi thẩm quyền của mình.

CHƯƠNG IV – CHẤM DỨT QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐẠI DIỆN 

Điều 17

Quyền hạn của người đại diện bị chấm dứt:

(a) khi điều này xuất phát từ bất kỳ thỏa thuận nào giữa người ủy quyền và người đại diện;

(b) khi hoàn tất giao dịch hoặc các giao dịch mà thẩm quyền được thành lập;

(c) khi bên ủy quyền hủy bỏ hoặc bên đại lý từ bỏ, bất kể điều này có phù hợp với các điều khoản trong thỏa thuận của họ hay không.

Điều 18

Quyền hạn của người đại diện cũng chấm dứt khi luật hiện hành có quy định như vậy.

Điều 19

Việc chấm dứt quyền hạn sẽ không ảnh hưởng đến bên thứ ba trừ khi bên đó biết hoặc đáng lẽ phải biết về việc chấm dứt hoặc những sự kiện gây ra việc chấm dứt đó.

Điều 20

Bất chấp việc chấm dứt thẩm quyền, người đại diện vẫn được ủy quyền thực hiện thay mặt cho người ủy quyền hoặc người kế nhiệm người ủy quyền các hành động cần thiết để ngăn ngừa thiệt hại đến lợi ích của họ.

CHƯƠNG V – ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG 

Điều 21

Chính phủ Thụy Sĩ được chỉ định là bên lưu chiểu cho Công ước này.

Điều 22

(1) Công ước này được mở để ký kết tại cuộc họp bế mạc của Hội nghị ngoại giao về đại lý trong việc bán hàng hóa quốc tế và sẽ vẫn mở để tất cả các quốc gia ký kết tại Berne cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1984.

(2) Công ước này phải được các quốc gia ký kết phê chuẩn, chấp thuận hoặc chấp thuận.

(3) Công ước này mở cửa cho tất cả các quốc gia không phải là quốc gia ký kết gia nhập kể từ ngày Công ước mở cửa cho việc ký kết.

(4) Các văn bản phê chuẩn, chấp thuận, chấp thuận và gia nhập phải được gửi đến Chính phủ Thụy Sĩ.

Điều 23

Công ước này không có hiệu lực đối với bất kỳ thỏa thuận quốc tế nào đã hoặc có thể được ký kết và có chứa các điều khoản của luật thực chất liên quan đến các vấn đề do Công ước này quản lý, với điều kiện là bên chính và bên thứ ba hoặc, trong trường hợp được đề cập trong Điều 2, đoạn 2, bên đại lý và bên thứ ba có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia là bên tham gia thỏa thuận đó.

Điều 24

(1) Nếu một Quốc gia ký kết có hai hoặc nhiều đơn vị lãnh thổ mà ở đó các hệ thống luật khác nhau được áp dụng liên quan đến các vấn đề được giải quyết trong Công ước này, thì tại thời điểm ký kết, phê chuẩn, chấp thuận, chấp thuận hoặc gia nhập, quốc gia đó có thể tuyên bố rằng Công ước này sẽ mở rộng cho tất cả các đơn vị lãnh thổ của quốc gia đó hoặc chỉ cho một hoặc nhiều đơn vị trong số đó và có thể sửa đổi tuyên bố của mình bằng cách đệ trình một tuyên bố khác bất kỳ lúc nào.

(2) Những tuyên bố này phải được thông báo cho người lưu chiểu và phải nêu rõ các đơn vị lãnh thổ mà Công ước mở rộng đến.

(3) Nếu, theo tuyên bố theo Điều này, Công ước này mở rộng đến một hoặc nhiều nhưng không phải tất cả các đơn vị lãnh thổ của một Quốc gia ký kết, và nếu địa điểm kinh doanh của một bên nằm ở Quốc gia đó, thì địa điểm kinh doanh này, cho mục đích của Công ước này, được coi là không nằm ở một Quốc gia ký kết, trừ khi nó nằm ở một đơn vị lãnh thổ mà Công ước mở rộng đến.

(4) Nếu một quốc gia ký kết không đưa ra tuyên bố theo khoản 1 của Điều này, Công ước sẽ được mở rộng cho tất cả các đơn vị lãnh thổ của quốc gia đó.

Điều 25

Trong trường hợp một Quốc gia ký kết có hệ thống chính quyền trong đó các quyền hành pháp, tư pháp và lập pháp được phân bổ giữa các cơ quan trung ương và các cơ quan khác trong Quốc gia đó, việc ký kết hoặc phê chuẩn, chấp thuận hoặc chấp thuận, hoặc gia nhập Công ước này, hoặc việc đưa ra bất kỳ tuyên bố nào theo Điều 24 sẽ không có hàm ý về sự phân bổ quyền lực nội bộ trong Quốc gia đó.

Điều 26

(1) Hai hoặc nhiều quốc gia ký kết có cùng hoặc có liên quan chặt chẽ với nhau về các vấn đề do Công ước này quản lý có thể bất kỳ lúc nào tuyên bố rằng Công ước không áp dụng khi bên chính và bên thứ ba hoặc, trong trường hợp được đề cập trong Điều 2, đoạn 2, bên đại lý và bên thứ ba có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia đó. Những tuyên bố như vậy có thể được đưa ra chung hoặc bằng các tuyên bố đơn phương có đi có lại.

(2) Một quốc gia ký kết có các quy tắc pháp lý giống nhau hoặc có liên quan chặt chẽ về các vấn đề do Công ước này quản lý như một hoặc nhiều quốc gia không ký kết có thể bất cứ lúc nào tuyên bố rằng Công ước không áp dụng khi bên chính và bên thứ ba hoặc, trong trường hợp được đề cập trong Điều 2, đoạn 2, bên đại lý và bên thứ ba có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia đó.

(3) Nếu một quốc gia là đối tượng của tuyên bố theo khoản trước sau đó trở thành một quốc gia ký kết, thì tuyên bố được đưa ra, kể từ ngày Công ước có hiệu lực đối với quốc gia ký kết mới, sẽ có hiệu lực của một tuyên bố được đưa ra theo khoản 1, với điều kiện là quốc gia ký kết mới tham gia vào tuyên bố đó hoặc đưa ra một tuyên bố đơn phương có đi có lại.

Điều 27

Một quốc gia ký kết có luật pháp yêu cầu việc ủy ​​quyền, phê chuẩn hoặc chấm dứt thẩm quyền phải được thực hiện hoặc chứng minh bằng văn bản trong mọi trường hợp do Công ước này quản lý có thể bất kỳ lúc nào tuyên bố theo Điều 11 rằng bất kỳ quy định nào của Điều 10, Điều 15 hoặc Chương IV cho phép việc ủy ​​quyền, phê chuẩn hoặc chấm dứt thẩm quyền được thực hiện bằng hình thức khác ngoài văn bản thì không áp dụng khi người ủy quyền hoặc đại lý có địa điểm kinh doanh tại quốc gia đó.

Điều 28

Một quốc gia thành viên có thể tuyên bố tại thời điểm ký kết, phê chuẩn, chấp thuận, chấp thuận hoặc gia nhập rằng quốc gia đó sẽ không bị ràng buộc bởi Điều 2, đoạn 1 (b).

Điều 29

Một Nhà nước ký kết, toàn bộ hoặc một số bộ phận cụ thể của hoạt động thương mại nước ngoài được thực hiện độc quyền bởi các tổ chức được ủy quyền đặc biệt, có thể bất cứ lúc nào tuyên bố rằng, trong trường hợp các tổ chức đó hoạt động với tư cách là người mua hoặc người bán trong hoạt động thương mại nước ngoài, tất cả các tổ chức này hoặc các tổ chức được nêu trong tuyên bố sẽ không được coi, cho mục đích của Điều 13, đoạn 2 (b) và 4, là các tác nhân trong quan hệ của họ với các tổ chức khác có địa điểm kinh doanh tại cùng một Nhà nước.

Điều 30

(1) Một quốc gia ký kết có thể bất cứ lúc nào tuyên bố rằng mình sẽ áp dụng các điều khoản của Công ước này cho các trường hợp cụ thể nằm ngoài phạm vi áp dụng của mình.

(2) Ví dụ, tuyên bố đó có thể quy định rằng Công ước sẽ áp dụng cho:

(a) các hợp đồng khác ngoài hợp đồng mua bán hàng hóa;

(b) các trường hợp mà địa điểm kinh doanh được đề cập trong Điều 2, đoạn 1, không nằm trong các Quốc gia ký kết.

Điều 31

(1) Các tuyên bố được đưa ra theo Công ước này tại thời điểm ký kết phải được xác nhận sau khi phê chuẩn, chấp thuận hoặc chấp thuận.

(2) Tuyên bố và xác nhận tuyên bố phải được lập thành văn bản và được thông báo chính thức cho người lưu ký.

(3) Một tuyên bố có hiệu lực đồng thời với việc có hiệu lực của Công ước này đối với Quốc gia liên quan. Tuy nhiên, một tuyên bố mà bên lưu ký nhận được thông báo chính thức sau khi có hiệu lực sẽ có hiệu lực vào ngày đầu tiên của tháng sau khi hết sáu tháng kể từ ngày bên lưu ký nhận được. Các tuyên bố đơn phương có đi có lại theo Điều 26 có hiệu lực vào ngày đầu tiên của tháng sau khi hết sáu tháng kể từ ngày bên lưu ký nhận được tuyên bố mới nhất.

(4) Bất kỳ quốc gia nào đưa ra tuyên bố theo Công ước này đều có thể rút lại tuyên bố đó bất kỳ lúc nào bằng thông báo chính thức bằng văn bản gửi đến cơ quan lưu chiểu. Việc rút lại đó có hiệu lực vào ngày đầu tiên của tháng sau khi hết sáu tháng kể từ ngày cơ quan lưu chiểu nhận được thông báo.

(5) Việc rút lại tuyên bố được đưa ra theo Điều 26 sẽ làm cho bất kỳ tuyên bố có đi có lại nào được đưa ra bởi một quốc gia khác theo Điều đó trở nên không có hiệu lực kể từ ngày việc rút lại có hiệu lực.

Điều 32

Không được phép đặt chỗ ngoại trừ những đặt chỗ được cho phép rõ ràng trong Công ước này.

Điều 33

(1) Công ước này có hiệu lực vào ngày đầu tiên của tháng sau khi hết mười hai tháng kể từ ngày nộp văn kiện phê chuẩn, chấp thuận, chấp thuận hoặc gia nhập thứ mười.

(2) Khi một quốc gia phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập Công ước này sau khi văn bản phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập thứ mười được nộp, Công ước này có hiệu lực đối với quốc gia đó vào ngày đầu tiên của tháng sau khi hết mười hai tháng kể từ ngày nộp văn bản phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập của quốc gia đó.

Điều 34

Công ước này áp dụng khi đại lý chào bán hoặc mua hoặc chấp nhận lời chào bán hoặc mua vào hoặc sau ngày Công ước có hiệu lực đối với Quốc gia ký kết được đề cập tại Điều 2, đoạn 1.

Điều 35

(1) Một quốc gia ký kết có thể từ bỏ Công ước này bằng cách gửi thông báo chính thức bằng văn bản cho cơ quan lưu chiểu.

(2) Việc tố cáo có hiệu lực vào ngày đầu tiên của tháng sau khi hết mười hai tháng kể từ khi người lưu chiểu nhận được thông báo. Trong trường hợp thông báo nêu rõ thời hạn tố cáo có hiệu lực dài hơn, thì việc tố cáo có hiệu lực khi hết thời hạn dài hơn đó sau khi người lưu chiểu nhận được thông báo.

ĐỂ LÀM BẰNG CHỨNG, những người đại diện toàn quyền ký tên dưới đây, được Chính phủ của họ ủy quyền hợp lệ, đã ký vào Công ước này.

ĐƯỢC THỰC HIỆN tại Geneva, ngày mười bảy tháng 2 năm một nghìn chín trăm tám mươi ba, thành một bản gốc duy nhất, trong đó cả văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp đều có giá trị như nhau.

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Nam Lua

Nam Lua

Bình luận

avatar