NGUYỄN DU HAI LẦN LÀM THẨM PHÁN
Trên quảng đời hoạn lộ khá dài của mình, đặc biệt có giai đoạn ông làm Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội), chắc chắn Nguyễn Du đã nhiều lần làm công việc xét xử, nhưng không thấy sử sách nào ghi lại. Tuy nhiên, bằng cách hóa thân vào hai nhân vật trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có hai lần làm thẩm phán. Lần thứ nhất, Nguyễn Du vào vai Phán quan Thái thú Lâm Tri, thụ lý đơn của Thúc Ông (cha của Thúc Sinh), xử buộc Thúy Kiều phải trở lại lầu xanh. Lần thứ hai, Nguyễn Du vào vai Vương Thúy Kiều – phu nhân của chủ tướng Từ Hải, để xử các bị cáo: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Ưng, Khuyển, Bạc Hà, Bạc Hạnh, Thúc sinh và Hoạn Thư. Cả hai lần đều thụ lý đơn rất nhanh, xử lý sáng suốt, công bằng, dứt khoát nhưng rất nhân đạo. Bài dưới đây đề cập đế hai lần làm thẩm phán của Nguyễn Du.
Vụ án thứ nhất
Thúc Sinh tên đầy đủ là Thúc Kỳ Tâm, “Vốn người huyện Tích, châu Thường/ Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Chuy”. Chẳng biết cửa hàng của Thúc Sinh buôn bán kiểu gì nhưng Thúc Sinh cũng có thời gian và tiền bạc rủng rỉnh để vào lầu xanh “Sớm đào, tối mận lân la/ Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng” với Thúy Kiều. Vì quá mê Thúy Kiều, Thúc Sinh lập mưu cứu Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh để lập phòng nhì:
“Mượn điều trúc viện thừa hương
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
Chiến hòa sắp sẵn hai bài,
Cậy người thầy thợ, mượn người dò la.
Bắn tin đến mụ Tú bà,
Thua cơ, mụ cũng cầu hòa, dám sao”.
Nhưng Thúc Ông, cha của Thúc Sinh, khi hay tin con trai mình., “làm việc gì cũng là chuyện nhỏ nhưng lấy vợ nhỏ là chuyện to”, mà ở đây vợ nhỏ lại là gái lầu xanh, cho nên Thúc Ông đã
“Phong lôi nổi trận bời bời,
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn trở về lầu xanh!” (câu 1389-1392).
Nhưng Thúc Sinh ngỗ nghịch không tuân mệnh cha mà còn rất lý sự và đòi tự tử chứ nhất quyết không bỏ Thúy Kiều:
“Thấy lời nghiêm huấn rành rành
Đánh liều Sinh mới lấy tình nài kêu.
Rằng: ‘con biết tội đã nhiều,
Dẫu rằng sấm set, búa riều cũng cam.
Trót vì tay đã nhúng chàm,
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây!
Cùng nhau vả tiếng một ngày.
Ôm cầm, ai nỡ dứt dây cho đành.
Lượng trên quyết chẳng thương tình,
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi”. (1393-1420)
Thúc Ông “Thấy lời sắc đá tri tri / sốt gan, ông mới cáo quỳ cửa công“.
Nguyễn Du, thông qua nhân vật của Thái Thú Lâm Tri, đã thụ lý đơn rất nhanh và đưa ra phán quyết “sơ thẩm” cũng rất nhanh:
“Đất bằng nổi sóng đùng đùng,
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.
Cùng nhau theo gót sai nha,
Song song vào trước sân hoa, lạy quỳ.
Trông lên mặt sắt đen sì,
Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời:
Gã kia dại nết chơi bời,
Mà con người thế là người đong đưa!
Tuồng gì hoa thải, hương thừa,
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen!
Suy trong tình trạng nguyên đơn,
Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.
Phép công chiếu án luận vào.
Có hai đường ấy, muốn sao mặc mình:
Một là cứ phép gia hình
Một là lại cứ lầu xanh phó về!”.
Nếu Thúy Kiều là gái mại dâm chuyên nghiệp, đong đưa, “Mượn màu son phấn đánh lừa con đen”, còn Thúc Sinh chỉ là “Gã kia dại nết chơi bời” thì Thúy Kiều tất sẽ phải vui lòng chọn trở về lại lầu xanh để tiếp tục sống cuộc đời trụy lạc. Phán quyết như thế là đúng với gái lầu xanh chuyên nghiệp, với số đông nói chung. Nhưng sự thực, Thúy Kiều đâu phải là người như thế, cho nên, thà chịu khổ hình còn hơn trở về chốn cũ, Thúy Kiều đã chọn một trong hai:
“Nàng rằng đã quyết một bề,
Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần!
Đục trong, thân cũng là thân,
Yếu thơ, vâng chịu trước sân lôi đình”.
Nàng đã chấp nhận chịu đòn chứ không chọn trỏ lại lầu xanh. Lập tức Pháp quan cho thi hành án theo sự chọn lựa của Thúy Kiều:
“Dạy rằng: ‘Cứ phép gia hình!’
Ba cây chập lại một hình mẫu đơn
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quyện má, liễu tan tác mày
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương”.
Thấy Thúy Kiều chịu đòn đến đây thì quan Thái thú Lâm Tri đâm ra ngờ vực bản án của mình. Liếc qua phía Thúc Sinh, thấy chàng cũng rơi lụy và than thở một mình:
“Khóc rằng: Oan khốc vì ta
Có nghe lời trước chớ đà lụy sau.
Cạn lòng, chẳng biết nghĩ sâu
Để ai trăng tủi, hoa sầu vì ai?”
Lúc đó, Thái Thú Lâm Tri mới “Động lòng lại gạn đến lời riêng tây” và Thúc Sinh lúc này mới có cơ hội dạn dĩ, tỏ bày sự thật:
“Sụt sùi chàng mới thưa ngay,
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân:
‘Nàng đà tính hết xa gần,
Từ xưa nàng đã biết thân có rày
Tại tôi hấng lấy một tay,
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi”.
Thúc Sinh đã khai thật vì trước khi cứu Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh để lập “Phòng nhì” thì Thúy Kiều đã lường trước hậu quả và đã từng nói với Thúc Sinh rằng:
“Thế trong dù lớn hơn ngoài
Trước hàm sư tử gởi người đằng la.
Cúi đầu luồn xuống mái nhà
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng
Ở trên còn có nhà thông
Lượng trên trông xuống biết lòng có thương”
Nhưng vì “Thúc Sinh quen thói bốc đồng/ Trăm nghìn đổ một trận cười như không!”, không lường trước được hậu quả, nên đã cam kết với Thúy Kiều rằng: “Đường xa chớ ngại Ngô Lào/Trăm điều hãy cứ trông vào một ta”. Ngày hôm nay, Thúy Kiều bị đau đớn khổ sở, Thúc Sinh cũng không cứu được nàng mà chỉ than khóc, “đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân”. Cũng may Phán quan “Nghe lời nói cũng thương lời/ Dẹp uy, mới dạy mở bài giải vi”, phúc thẩm:
“Rằng: ‘Như hẳn có thế thì,
Trăng hoa, song cũng thị phi biết điều!’
Sinh rằng: ‘Chút phận bọt bèo,
Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.’
Cười rằng: ‘Đã thế thì nên,
Một già hãy thử một thiên, trình nghề’
Nàng vâng cất bút tay đề,
Tiên hoa trình trước án phê, xem tường,
Khen rằng: “Giá lợp Thịnh Đường
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân
Thực là tài tử giai nhân
Châu Trần, còn có Châu Trần nào hơn
Thôi đừng rước dữ, cưu hờn,
Làm chi lỡ nhịp cho đờn ngang cung.
Đã đưa đến trước cửa công,
Ngoài thì là lẽ, song trong là tình.
Dâu con trong đạo gia đình,
Thôi thì dẹp nỗi bất bình, là xong”
Kíp truyền sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao.
Bày hàng cồ súy xôn xao,
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.
Thương vì hạnh, trọng vì tài
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Huệ lan sực nức một nhà
Từng cay đắng, lại mặn mà hơn xưa”.
Lời bàn của Năm Lúa đối với vụ án thứ nhất:
Thời phong kiến, Việt Nam và Trung Quốc không có phán quan chuyên nghiệp như các nước phương Tây. Các quan văn chỉ cần trải qua kỳ thi về văn chương thi phú là có thể nắm giữ chức vụ xét xử. Họ không chuyên và ít hiểu biết pháp luật, nên “xử sao cũng được”, mà di họa của nó còn lưu lại trong xã hội Việt Nam cho đến ngày nay. Nguyễn Du cũng là vị quan như vậy trong thời đại của ông. Tuy nhiên, ông là người sâu sắc, thanh liêm chính trực, ông không ngâm án để chờ của đút lót mà chúng ta thường thấy xưa nay. Ông thiết diện vô tư “Trông lên mặt sắt đen sì” như Bao Công. Phán quyết sơ thẩm của ông là rất hợp tình hợp lý. Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều chọn một trong hai: “Một là cứ phép gia hình/ Một là lại cứ lầu xanh phó về” là một phán quyết chính xác, nhân đạo. Tuy nhiên, Thúy Kiều đã chọn “Yếu thơ, vâng chịu trước sân lôi đình”, đến mức “Gường lờ nước thủy, mai gầy vóc sương”. Đây là tình tiết mới, chứng tỏ Thúy Kiều không phải là gái lầu xanh chuyên nghiệp. Hơn nữa, sau khi thẩm tra lại, Nguyễn Du còn phát hiện ra Thúy Kiều là người trí thức: “Nàng vâng cất bút tay đề/ Tiên hoa trình trước án phê, xem tường/ Khen rằng: ‘Giá lợp Thịnh Đường’/ Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!”. Một người “Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân” mà đem vứt trả lại lầu xanh thì quá nhẫn tâm, quá uổng ! Nguyễn Du không nỡ làm như thế và ông đã phúc thẩm, sửa án sơ thẩm: “Kíp truyền sắm sửa lễ công/ Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao”, có nghĩa là, Quan Thái Thú Lâm Tri đã làm lễ kết hôn cho Thúy Kiều với Thúc Sinh. Đến đây thì Thúc ông vui vẻ, hăm hở chịu án phí, vì đã “Thương vì hạnh, trọng vì tài/ Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba”.
II. Vụ án thứ hai
Trong vai Vương Thúy Kiều – phu nhân được sủng ái của một phiên vương Từ Hải, cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã đứng ra xét xử, với những lập luận để đời, đáng để cho hậu thế ngưỡng mộ, học tập.
Đối với bọn tội phạm rành rành, không có tình tiết giảm nhẹ, thì Nguyễn Du có phán quyết rất dứt khoát:
“Trước là Bạc Hạnh, Bạc Hà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh
Tú bà với Mã giám sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?,
Lệnh quân truyền xuống nội đao
Thề sao, thì lại cứ sao gia hình.
Máu rơi thịt nát, tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh, phách rời!
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta!
Mấy người bạc ác, tinh ma,
Mình làm, mình chịu, kêu mà ai thương”.
Như vậy là Nguyễn Du đã có thái độ dứt khoát với đám tội phạm Mã Giám Sinhn, Tú Bà, Sở Khanh, Ưng, Khuyển, Bạc Hạnh, Bạc Hà, bằng hai câu thơ “Mấy người bạc ác, tinh ma/ Mình làm, mình chịu, kêu mà ai thương”. Tư tưởng của Nguyễn Du, đối với những hạng người “vừa bạc ác, vừa tinh ma”, thì phải loại ra khỏi đời sống xã hôi. Tuy nhiên, đến lượt xem xét, xử lý đối với Thúc Sinh và Hoạn Thư thì Nguyễn Du lại có phán xét một cách khác lạ, thể hiện sự từng trải sâu thẳm của một thiên tài.
Thúc Sinh bị đến tòa với tư cách bị cáo “Cho gươm mời đến Thúc lang/ Mặt như chàm đổ, mình dường giẽ run”, chứ không giống nhu trường hợp hai người phụ nữ được báo ơn “Mụ, sư trưởng thứ hai/ Thoạt đưa đến trước, vội mời lên trên”. Nguyễn Du mô tả Thúc Sinh “Mặt như chàm đổ, mình dường giẽ run” là chính xác với tâm lý tội phạm của con người Thúc Sinh, trước Thúy Kiều và Phiên vương Từ Hải bên cạnh nàng. Tất nhiên, Thúc Sinh phải biết cái tội bốc phét, hứa đại của ông với Thúy Kiều năm xưa: “Đường xa chớ ngại Ngô Lào/ Trăm điều chỉ có trông vào một ta”, với hậu quả là, Thúy Kiều phải hai lần chịu cực hình – lần thứ nhất do Thái Thú Lâm Tri và lần thứ hai do Hoạn Thư, gây ra. Đó là chưa kể, bên cạnh Thùy Kiều, có Tổng bí thư Đảng là Từ Hải ngồi ghế hội thẩm, nếu ông ta nổi máu ghen với “tình xưa nghĩa cũ” của Thúy Kiều thì chắc chắn Thúc Sinh sẽ mất mạng. Nhưng Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều xử lý rất tài tình, mà ngày nay, ngẫm lại, khó có thể có cách nào xử lý khác đối với Thúc Sinh:
“Nàng rằng: ‘Nghĩa trọng nghìn non,
Lâm Chuy người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”.
Từ một người bị mời đến bằng gươm, tưởng là tội chết, thì thật bất ngờ, Thúc Sinh lại được báo ân, mà không một lời oán trách, vì Thúy Kiều biết rằng, những gì xảy ra đối với nàng là ngoài ý muốn và ngoài khả năng bảo bọc, che chở của Thúc Sinh. Nhưng đối với Hoạn Thu – vợ Thúc Sinh thì Thúy Kiều hăm dọa, đay nghiến với lời lẽ hận thù “muôn đời muôn kiếp không tan”, giữa hai người đàn bà “lấy chồng chung”:
“Vợ chàng quỷ quái, tinh ma,
Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau!
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.
***
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
‘Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm còn oan trái nhiều!”
Nhưng rồi thông qua nhân vật Hoạn Thư, Nguyễn Du đã đưa ra lập luận với những tình tiết, sự kiện, thể hiện sự đấu tranh bảo vệ quyền lợi hợp pháp và sự phòng vệ chính đáng của Hoạn Thư:
“Rằng: ‘tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình!
Nghĩ cho khi các viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng những kính yêu,
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai!
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Và thông qua nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã chấp nhận lời bào chữa hợp lý, hợp tình của Hoạn Thư, và tha ngay cho Hoạn Thư:
“Khen cho: “Thật đã nên rằng
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”.
Qua phán quyết đối với Hoạn Thư, Nguyễn Du đã cho ta thấy rạch ròi giữa nạn nhân và thủ phạm. Trong quan hệ giữa Hoạn Thư và Thúy Kiều thì chính Thúy Kiều mới là thủ phạm, lén lút chồng của Hoạn Thư, có nguy cơ phá vở cả gia đình “Vốn dòng họ Hoạn danh gia/ Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư” (câu 1529-1530). Hoạn Thư chỉ là nạn nhân, thực hiện quyền phòng vệ chính đáng, phù hợp với hoàn cảnh của bà lúc đó. Đặc biệt, khi Thúy Kiều trốn khỏi Quan âm các trong vườn nhà của Hoạn Thư, đã lấy “Phật tiền, sẵn có mọi đồ kim ngân/ Bên mình dắt để hộ thân”, nhưng Hoạn Thư đã không truy đuổi, nay Hoạn Thư nhắc lại “Nghĩ cho khi các viết kinh/ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”. Một người tinh tế, nhạy cảm, sâu sắc như Thúy Kiều tất phải nhận ra ai là thủ phạm, ai là người “Trót đà gây việc chông gai”. Người đó phải là Thúy Kiều, chứ không thể là Hoạn Thư, vì dù nếu Thúc Sinh – “Gã kia dại nết chơi bời”, Mà Thúy Kiều không “làm người đong đưa”, thì không xảy ra việc chông gai không thể xảy ra.
Lời bàn của Năm Lúa đối với vụ án thứ hai:
Nguyễn Du là một thiên tài thì không cần phải bàn, nhưng thiên tài của Nguyễn Du thể hiện qua những chi tiết nào thì phải nhờ đến sự phân tích trao đổi của nhiều người, ở nhiều thế hệ. Chỉ riêng trong đối với hai lần thẩm phán, Nguyễn Du cũng để lại dấu ấn của một thiên tài. Đối với tội phạm cố ý, “vừa bạc ác, vừa tinh ma” thì “Mình làm mình chịu, kêu mà ai thương”, nhưng đối với Hoạn Thư, “tự bảo vệ quyền dân sự phù hợp với tính chất, mức độ xâm phạm” trước sự xâm phạm của Vương Thúy Kiều, tương tự như ngày nay, người dân bảo vệ quyền lợi của họ theo quy định tại Điều 12 BLDS 2015 thì không phải là tội phạm, cho nên, không thể xử lý nạn nhân – người bị thiệt hại hoặc người bị hại.
Lời bào chữa của Hoạn Thư rất khéo léo và rất nặng ký. Tuy nhận mình là người “Trót đà gây việc chông gai”, nhưng Hoạn Thư biết rất rõ người gây ra việc chông gai chính là Vương Thúy Kiều, cho nên Hoạn Thư tư tin thể hiện qua với thái độ “Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca”. Thúy Kiều là người “Thông minh vốn sẵn tính trời”, cho nên, cũng hiểu ngay chính mình mới là thủ phạm và “Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”. Lật qua lật lại vụ Thúy Kiều xử Hoạn Thư, đặt vào hoàn cảnh cụ thể của hai nhân vật, tôi không thấy có cách nào xử khác. Thiên tài của Nguyễn Du thể hiện qua hai lần phán xử này có thể là bài học cho hậu thế.
Đối chiếu với vụ án Konica Minolta hiện nay, chắc mọi người cũng dễ thấy những kẻ “Trót đà gây việc chông gai” là ai. Chắc chắn Ban lãnh đạo Tòa án Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng rất biết họ cũng thuộc vào nhóm người “Trót đà gây việc chông gai”, với bằng chứng là có hai bản án phúc thẩm bị hủy, cho nên, họ đã tìm hết lý do này đến lý do khác, để lần lữa, kéo dài vụ án.
Tôi xin mượn lời thơ của Tố Hữu để kết thúc bài này:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!”./.
Bình luận