LỜI BIỆN HỘ CỦA HOẠN THƯ TRƯỚC THẨM PHÁN VƯƠNG THÚY KIỀU
1. Tóm tắt vụ án Hoạn Thư
Nguyên Thúc Sinh là chồng của Hoạn Thư, một thương nhân, mở ngôi hàng ở Lâm Truy buôn bán. Thúc Sinh xa nhà, vào chơi chốn lầu xanh gặp Thúy Kiều. Thúc Sinh say mê tài sắc của Thúy Kiều nên cứu Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh và cưới Thúy Kiều làm vợ bé. Hoạn Thư hay tin nhưng bỏ ngoài tai và nghiêm cấm tin ấy lộ ra ngoài. Thúy Kiều bàn với Thúc Sinh là phải công khai hóa chuyện làm bé của Thúy Kiều. Thúc Sinh về dàn xếp chuyện gia đình, nhưng khi thấy Hoạn Thư cư xử quá mặn nồng và hình như không biết gì chuyện trăng hoa của mình, nên Thúc Sinh im lặng, không dám hé răng chuyện lập “phòng nhì”. Ở nhà một thời gian, Thúc Sinh trở lại Lâm Truy bằng đường bộ. Hoạn Thư cũng cho tay chân là Ưng, Khuyển và một đám gia nhân đi đường tắt bằng thuyền để đến Lâm Truy trước, bắt cóc Thúy Kiều, đốt nhà bỏ xác người chết vào để tạo hiện trường giả là Thúy Kiều đã chết cháy. Thúc Sinh ngờ Thúy Kiều đã chết cháy nên lập bàn thờ. Còn bọn Ưng, Khuyển bắt Thúy Kiều về giao cho mẹ Hoạn Thư đánh đập, buộc làm nô tỳ, sau đó chuyển giao để hầu hạ trong gia đình Hoạn Thư.
Một thời gian sau, Thúc Sinh trở về nhà. Hoạn Thư bắt Thúy Kiều ra lạy ông chủ Thúc Sinh – chồng mình. Đây là tình huống bất ngờ và nghiệt ngã đối với Thúc Sinh và Thúy Kiều. Thúc Sinh và Thúy Kiều không thể nhận nhau trước mặt Hoạn Thư. Ta hãy hình dung hoàn cảnh và tâm trạng Thúy Kiều lúc vợ chồng Hoạn Thư vui vầy bắt Thúy Kiều đứng hầu:
Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng trực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt, đến lời,
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay.
Sinh càng như dại như ngây,
Giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi.
Ngoảnh đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã tính bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét: – “Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn!”
Sinh càng nát ruột tan hồn
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
…
Nàng đà choáng váng tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Khi vợ chồng Hoạn Thư vào ngủ thì Thúy Kiều phải đứng canh:
Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:
“Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen! …”
Sau đó, Thúy Kiều được Hoạn Thư cho ra ở Quan Âm Các nằm trong vườn nhà của Hoạn Thư, rồi Thúy Kiều bỏ trốn, mang theo “ Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân”, để làm của hộ thân.
Sau một thời gian lưu lạc qua nhiều đau thương, Thúy Kiều trở thành phu nhân của chủ tướng Từ Hải. Và hôm nay, Thúy Kiều mở phiên tòa để xét xử một số vụ án; trong đó có vụ án quan trọng là vụ Hoạn Thư.
2. Thành phần “hội đồng xét xử”:
– “Thẩm phán” Vương Thúy Kiều (vừa là chủ tọa phiên tòa, vừa là người bị hại).
– “Hội thẩm”: Từ Hải (chồng Thúy Kiều)
3. Các bị cáo:
a/ Hoạn Thư: Vừa là kẻ chủ mưu, cầm đầu; vừa là người thực hành.
b/ Khuyển, Ưng là đồng phạm vụ án với vai trò là người thực hành, giúp sức một cách đắc lực cho Hoạn Thư.
c/ Một đồng phạm vắng mặt là mẹ của Hoạn Thư. Y vừa là người chủ mưu, vừa là người giúp sức nhưng hôm nay không có mặt tại phiên tòa.
4. “Nhân chứng” có mặt tại phiên tòa:
– Thúc Sinh là chồng của bị cáo Hoạn Thư và nguyên là người sống chung như vợ chồng với Vương Thúy Kiều.
– Mụ quản gia nhà Hoạn Thư.
– Vãi Giác Duyên.
5. Các “bị cáo” bị truy tố về các tội:
“Ghen tuông – ngăn cản chồng có vợ bé, đốt nhà, bắt cóc người, đánh đập làm nhục người khác rất tàn nhẫn”.
Lưu ý về, pháp luật quy định: “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”, nhưng không dược thay đổi trật tự vợ lớn vợ bé (Ai lớn thì lớn, ai bé thì bé nhưng vợ lớn phải chấp nhận nếu chồng quyết có vợ bé). Vì vậy Hoạn Thư bị truy tố về tội ghen tuông, ngăn cản chồng có vợ bé.
Vụ án của Hoạn Thư là vụ án đã được chính Vương Thúy Kiều chọn làm án điểm, xét duyệt trước với sự căm thù sâu nặng giữa hai người đàn bà “lấy chồng chung”. Vì vậy, Thúy Kiều đã duyệt mức án nặng nhất, việc xét xử chỉ là lấy lệ. Cái chết cầm chắc đang chờ Hoạn Thư.
Ta hãy nghe “Thẩm phán” Vương Thúy Kiều buộc tội với lời lẽ hăm dọa:
“Vợ chàng quỉ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!”
…
Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Thoắt trông nàng (Kiều) đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều!”.
Và đây là thái độ và lời tự bào chữa của Hoạn Thư:
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng những kính yêu.
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót đà gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Trước hết, ta thử bàn về thái dộ của bị cáo Hoạn Thư.
Rõ ràng Hoạn Thư không có một chút gì biểu hiện ngoan cố mà còn tỏ ra rất sợ sệt: “Hoạn Thư hồn tạc phách xiêu”. Chính đây là thái độ gây cảm tình và thương xót đối với các quan tòa ở mọi thời đại. Nhưng Hoạn Thư hơn các bị cáo thường tình ở chỗ rất bình tĩnh – sự bình tĩnh đạt đến trình độ Hoạn Thư: “Khấu đầu dưới trướng 1iệu điều kêu ca”. Hoạn Thư đã sợ đến “hồn lạc phách xiêu” mà vẫn làm dược cái chuyện “liệu điều kêu ca” thì thật là “đàn bà dễ có mấy tay, Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan”.
Mặc dù không đề cập gì đến bà “Thẩm phán” Vương Thúy Kiều, nhưng lý lẽ của Hoạn Thư cao thủ đến mức làm cho Thúy Kiều thấy xử Hoạn Thư là xử chính mình:
“Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
…
Lòng riêng, riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”
Nói vậy là Hoạn Thư đã nói với Thúy Kiều:
– Thấy chưa? Tôi cũng đàn bà như bà “Thẩm phán”, làm sao tôi không ghen được. Máu tôi cũng đỏ cơ mà. Chồng bà là Từ Hải ngồi đó, bà cho ai mượn thử coi?
Vì Thúy Kiều là hạng người biết nghĩ xa “thấy người nằm đó biết sau thế nào” nên lời biện hộ trên là vô cùng giá trị.
Hoạn Thư lại kể công với Thúy Kiều:.
“Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”
Nàng có nhớ không, khi nàng lấy trộm Phật tiền trên bàn thờ mang theo làm lộ phí đi đường, tôi không đuổi theo là vì tôi không có ý muốn hại nàng, tôi chỉ muốn giữ chồng cho riêng tôi, chứ tôi nào muốn hại nàng! Tôi cũng có công giúp nàng ra đấy chứ!
Đến đây thì “Thẩm phán” Thúy Kiều đã không còn bắt bẻ vào đâu được nữa. Hoạn Thư đã chứng minh một cách sắc bén là mình không cố ý phạm tội, mà nếu có đó chỉ là “tội tổ tông”, một loại tội do trời đất sinh ra. Nhưng cao thủ thêm một bậc là Hoạn Thư vẫn nhận rằng mình có tội và xin “Thẩm phán” Thúy Kiều tha thứ:
“Trót đà gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Với thái độ “hồn lạc phách xiêu”, lo sợ nhưng bình tình lạ lùng, lý lẽ sắc bén chứng minh rõ ràng là chỉ phạm “tội tổ tông” – tức là không có tội, nhưng lại nhận tội và xin tha thứ; đã đẩy Thúy Kiều vào tình huống phải tha, mặc dù trước đó đã duyệt án tử:
“Khen cho thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”.
Trước đây Thúy Kiều đã khen Hoạn Thư:
“Đàn bà thế ấy, thấy âu một người!
Ấy mới gan, ấy mới tài”
Và phong cho Hoạn Thư là “nhà ghen” (máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen) thì nay lại khen “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Thúy Kiều là người “thông minh vốn sẵn tính trời” và “sắc đành đòi một, tài đành họa hai” mà không thể buộc tội nổi họ Hoạn thì rõ là họ Hoạn biện hộ đạt đến trình độ trác việt.
Thúy Kiều có sự sai lầm – một sự sai lầm do sự biện hộ của Hoạn Thư mà ra. Xưa nay, người ta thường trị tội nặng những kẻ chủ mưu, kẻ cầm đầu còn xử nhẹ hoặc tha thứ cho kẻ thừa hành, kẻ giúp sức, kẻ a dua. Thế mà Thúy Kiều lại tha Hoạn Thư là kẻ cầm đầu, chủ mưu, còn bọn Ưng, Khuyển là kẻ thừa hành, giúp sức lại bị xử tử. Chính sự sai lầm của con người tài sắc Thúy Kiều (hay Nguyễn Du?) càng làm nổi bật tài biện hộ của Hoạn Thư.
Hoạn Thư thật xứng với “Vốn dòng họ Hoạn danh gia”. Hoạn Thư đã được Thúy Kiều phong là “Ghen gia”. Nay chúng ta có thể khen thêm là Hoạn Thư xứng đáng dược gọi là “luật gia – trạng sư”.
Thái độ và lời biện hộ của Hoạn Thư trước “Thẩm phán” Vương Thúy Kiều xứng đáng được các bị cáo và giới luật gia, luật sư học tập, coi đó như là thái độ và lời bào chữa mẫu mực.
Bình luận