Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

5. Ngày Trở Về Nam.

Đi lang thang hoài mà không biết chán nhưng vì hết tiền nên tôi phải quay về trường để đợi ngày về Nam.
Xuống ga Bỉm Sơn, cuốc bộ vào được đến trường là tôi đói lủi, vì trong túi không còn xu nào. Các bạn cho tôi mấy miếng bánh khô, gọi là bánh gỗ vì cứng như gỗ, để tôi ăn tạm qua đêm. Vì tôi đã lãnh tem phiếu và tiền ăn để đi chu du, nên tôi không còn tiêu chuẩn ở bếp ăn tập thể của trường nữa. Tôi bèn lân la xin ăn ké vào suất ăn thiếu thốn của các bạn. Cũng có khi chỉ vét những miếng cơm cháy cho qua bữa. Nhưng cũng may, có một số bạn bỏ trường đi mà không cắt suất ăn nên tôi cũng đủ no.

Gia tài HSMN của tôi chỉ gồm chiếc vali đựng mấy bộ quần áo, chăn màn và vài vật dụng cá nhân nhưng tôi đã bán hoặc đổi ổi, đổi bánh khô để ăn trước khi đi bụi nên tôi không còn gì. Ngày trở về Nam, tôi trở thành vô sản toàn thế giới – từ đầu tới chân. Thấy tôi vô sản quá, Nguyễn Văn Thành mới nhường cho tôi chiếc vali để làm gia tài. Vali trống rỗng với vài thứ lặt vặt, không có giá trị gì, nhưng trong vali ấy, có một quyển lưu bút là có thể qui ra thóc, đổi được trứng vịt, qui ra bánh, đổi thành bữa ăn. Một người bạn gái ở làng Giảng Võ đã tặng tôi quyển lưu bút này với những lời yêu thương, triều mến. Trong quyển lưu bút ấy, cứ cách vài trang, bạn ấy chèn vào tờ tiền rất mới. Tờ 1 hào, 2 hào, 5 hào, có khi là tờ 1 đồng. Đó là những tờ tiền do bạn nhịn ăn sáng, đổi ra tiền mới, để dành cho tôi. Nhờ những đồng tiền trong quyển lưu bút ấy mà tôi ấm bụng trong hành trình về Nam. Tôi luôn nhớ ơn bạn. Phải đến khi trưởng thành, tôi mới nhận ra người con gái này đã yêu mình. Con gái biết yêu trước mình. Sau 1975, tôi không có dịp gặp lại bạn nhưng thỉnh thoảng có thư qua lại. Tôi đi học kéo dài. Mãi đến khi đã ổn định công việc ở Sài Gòn, tôi mới đi Hà Nội tìm lại bạn, để nhắc lại những đồng tiền mà bạn đã chèn vào quyển lưu bút năm xưa. Lúc đó, tôi vẫn còn rất khó khăn, không báo ân được như Thúy Kiều, “Nghìn vàng gọi chút lễ thường/Mà lòng Phiếu Mẫu(*) mấy vàng cho cân?”, nhưng tôi cũng đã tỏ lòng biết ơn theo hoàn cảnh của tôi – theo cách của tôi.

Có lệnh về Nam. Tôi lên tàu F.1 tại ga Bỉm Sơn để vào Vinh. Trên tàu, tôi ngồi bên Ngô Thị M.Q. Cô bé này là học sinh lớp 6 từ Quế Lâm, Trung Quốc mới chuyển về trường 16 hồi đầu năm 1975. Em có khuôn mặt đẹp, tóc quấn đuôi sam, đang tuổi dậy thì, ngực mới nhô nhưng căng tròn, đầy quyến rũ. Mỗi khi buồn ngủ, em tin cậy, tựa vào tôi, ngủ ngon lành. Ngồi bên nhau, chúng tôi kể cho nhau nghe hoàn cảnh của mỗi người. Em mồ côi cả cha mẹ, có một em gái cũng là HSMN, mới học hết lớp 4. Về Nam, hai chị em chưa biết sẽ tá túc vào đâu. Lần đầu tiên, được một người con gái tin cậy, tựa vào vai mình thỏ thẻ, trái tim tôi thổn thức. Khi ấy, tôi ước gì được cưu mang cả đời em. Chúng tôi hứa hẹn sẽ sớm tìm gặp lại nhau ngay sau khi ổn định cuộc sống ở môi trường mới. Nhưng thời gian trôi qua, quá khốn khó, tôi không gặp lại em mà cũng không có thư vì em mồ côi, không có địa chỉ gia đình. Mãi khi đã là sinh viên năm thứ 3 của đại học Bách Khoa Đà Nẵng, tôi mới có dịp tìm gặp lại em. Bấy giờ, em đã lớn, em đã đi làm cán bộ nhà nước, đầy kiêu hãnh. Em không còn cái duyên HSMN mồ côi, nhí nhảnh như năm xưa. Em nói chuyện với tôi như chưa từng là bạn HSMN, như chưa hề gặp tôi. Tôi cảm thấy mình thật vô duyên!

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Lương Vĩnh Kim

Lương Vĩnh Kim

Bình luận

avatar