Khi bổn phận của anh là phải đối diện với hiểm nguy song anh bỏ chạy thì đó là sự hèn nhát.

Menu

9. Các Hành Vi Lừa Dối của KMV và Sao Nam

CÁC HÀNH VI LỪA DỐI CỦA KMVSAO NAM

(Click để xem Video)

A. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC HÀNH VI LỪA DỐI THEO QUI ĐỊNH TẠI Điều 132 BLDS 2005

Đối với hành vi lừa dối theo Đơn khởi kiện ngày 10/11/2015 của Saigonbook, yêu cầu tuyên hợp đồng 038 và hợp đồng 03 vô hiệu do lừa dối thì chỉ xem xét những hành vi lừa dối ở giai đoạn tiền hợp đồng 038. Và cũng chỉ xét những hành vi cố ý của KMV, Sao Nam hoặc người thứ ba, làm cho Saigonbookhiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó“, theo qui định tại Điều 132 BLDS 2005. Với qui định tại Điều 132 BLDS 2005 thì các hành vi lừa dối phải có những đặc điểm sau:

1. Theo qui định tại Điều 132 BLDS 2005 thì các hành vi lừa dối này có thể là của Sao Nam, của KMV hoặc của người thứ ba nào đó, không bắt buộc phải là người ký kết hợp đồng. Trong trường hợp cụ thể của vụ kiện này thì những người cố ý dẫn dụ làm Printing Shop, dẫn đến Saigonbook xác lập hợp đồng mua máy C1100, như đã tường trình trong bài Cú Lừa Printing Shop, gồm ông Trần Minh Nhật, ông Đỗ Giang Khánh, ông Đào Việt Linh, ông Trần Vũ và ông Trần Kim Chung. KMV không phải là bên thứ ba mà KMV cùng với Sao Nam là một bên của hợp đồng này, vì KMV là bên ủy quyền cho Sao Nam bán máy in C1100 cho Saigonbook theo Hợp Đồng Nhà Phân Phối và theo Giấy chứng nhận phân phối ủy quyền. Những cá nhân có tên nêu trên cũng không phải là người thứ ba mà là người làm thuê cho KMV hoặc làm thuê cho Sao Nam. Họ nhân danh KMV hoặc Sao Nam để giao dịch với Saigonbook. Luật sư của KMVSao Nam lấy lý do KMV không ký tên vào hợp đồng nên không liên quan, không chịu trách nhiệm là không đúng với qui định tại Điều 132 BLDS 2005Điều 173 khoản 5 Luật Thương mại 2005. Cả hai điều luật này, không bắt buộc KMV phải có ký tên vào hợp đồng, mới phải xem xét trách nhiệm liên đới.

2. Các hành vi lừa dối này phải có trước khi xác lập hợp đồng 038 và hoàn thành tại thời điểm xác lập hợp đồng 038. Sau khi đã ký hợp đồng 038, các hành vi lừa dối, nếu có, không dẫn đến vô hiệu hợp đồng 038, theo qui định tại Điều 132 BLDS 2005, nên không cần phải xem xét. Các hành vi điều chỉnh thời hạn bảo hành, thu hồi máy, trả lại tiền của Sao Nam chỉ là hành vi khắc phục hậu quả, không làm thay đổi bản chất lừa dối. Hành lừa dối đã diễn ra và hoàn thành trước khi ký kết hợp đồng 038 và không thể hiện trong hợp đồng 038, ví dụ như giảm giá đặc biệt 20% chỉ có trong Bảng Chào giá số 128, chứ không thể hiện trong hợp đồng. Khuyến mại bộ UPS cũng không có trong hợp đồng. Vì thế, chỉ xét các hành vi có trước khi ký kết hợp đồng và các hành vi này không nhất thiết phải thể hiện trong hợp đồng.

3. Hành vi “cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch”, được qui định tại Điều 131 BLDS 2005, cũng được coi là lừa dối và phải “được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này”. Đây là nội dung cần phải lưu ý, vì Hội đồng xét xử sơ thẩm, do Thẩm phán Phù Quốc Tuấn làm chủ tọa, đã tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về xuất xứ, là mâu thuẫn với qui định tại Điều 131 BLDS 2005. Cố ý không thông tin về xuất xứ, làm cho người ta nhầm lẫn về xuất xứ cũng là hành vi lừa dối theo qui định tại Điều 131 BLDS 2005.

4. Hành vi lừa dối bao gồm hai loại hành vi: Làm một việc mà pháp luật qui định không được làm hoặc không làm một việc mà pháp luật qui định phải làm. Ví dụ: Không thông tin cho người tiêu dùng theo qui định tại Điều 14 Luật Thương mại 2005, làm cho khách hàng “hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó”, cũng bị coi là lừa dối và giao dịch bị vô hiệu theo Điều 132 BLDS 2005.

5. Các hành vi lừa dối của giai đoạn tiền hợp đồng 038 này còn bao gồm cả giai đoạn tiền hợp đồng 018. Vì trước khi ký kết hợp đồng 018, Sao Nam cũng lừa dối về chủ thể, lừa về giá, lừa về khuyến mại, lừa về bảo hành, lừa về dịch vụ Click Charge. Vì đã mua máy C1070P mà không phát hiện ra các hành vi lừa dối của Sao NamKMV, nên mới dẫn đến mua máy C1100, vì cứ nghĩ rằng những thông tin mà Sao Nam cung cấp trong giai đoạn hợp đồng 018, cũng là cơ sở để xác lập hợp đồng 038. Tuy nhiên, đối với máy C1070P, Sao NamKMV đã nhận lại nên không kiện trong vụ kiện này nhưng hành vi lừa dối của giai đoạn tiền hợp đồng 018 phải được xem xét, vì những hành vi này cũng là nguyên nhân làm cho Saigonbook “hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng” theo qui định tại Điều 132 BLDS 2005.

B. CÁC HÀNH VI LỪA DỐI

1. Hành vi lừa dối về chủ thể hợp đồng: (Click để xem Video)

Theo Hợp Đồng Nhà Phân PhốiGiấy Chứng Nhận Phân Phối Ủy Quyền của KMV thì Sao Nam là đại lý được KMV ủy quyền, thế nhưng, trước khi xác lập hợp đồng 018hợp đồng 038, Sao Nam đều không báo cho Saigonbook biết quan hệ ủy quyền, được qui định tại Điều 584 khoản 2 BLDS 2005. Sao Nam đã không làm một việc mà pháp luật qui định phải làm là một dạng lừa dối. Tại tòa, KMV chối bỏ tư cách là bên ủy quyền cho đại lý Sao Nam cũng là sự lừa dối. Tuy nhiên, với hai hợp đồng bán máy C1070PC1100, KMVSao Nam có thủ đoạn khác nhau trong việc lừa dối về chủ thể hợp đồng. Đối với máy C1070P thì trước khi xác lập hợp đồng 018, Sao Nam không thông báo cho Saigonbook biết Sao Nam là bên được ủy quyền của KMV. Đối với máy C1100 thì Saigonbook đàm phán với KMV, mà cụ thể là ông Đào Việt Linh và ông Trần Vũ, nhưng KMV ủy quyền cho Sao Nam báo giá và ký kết hợp đồng. Tại thời điểm đang hợp tác làm Printing Shop, Saigonbook tin tưởng KMVSao Nam nên không đặt vấn đề đòi giấy ủy quyền của KMV. Nhưng khi phát hiện ra bị lừa, phải mua với giá gấp ba lần giá do KMV bán ra, thì tôi buộc ông Đào Việt Linh và ông Trần Kim Chung phải thu hồi máy, chứ không chỉ buộc riêng trách nhiệm của ông Trần Kim Chung. Băng ghi âm ngày 6/8/2015, băng ghi âm ngày 18/8/2015, Văn bản số 025Văn bản số 032 của ông Trần Kim Chungcác thư điện tử của ông Đào Việt Linh, chứng tỏ thu hồi máy là trách nhiệm của KMV vì họ là bên trực tiếp đàm phán bán máy C1100 cho Saigonbook gắn liền với việc giúp xây dựng Printing Shop. Chỉ sau khi thu hồi máy bằng hình thức mua lại bất thành, thì ông Tadasu Ichino mới ủy quyền cho Luật sư tiến sĩ Lê Nết chối bỏ trách nhiệm, vì cho rằng KMV không biết gì vì không có quan hệ hợp đồng. Vì KMV không ký vào hợp đồng và cũng không giao giấy ủy quyền, nên tôi không có cơ sở để kiện KMV ra tòa với tư cách bị đơn. Tôi chỉ kiện KMV ra tòa với tư cách là Người có quyền, nghĩa vụ liên quan, với bị đơn là Sao Nam. Tại tòa Sao Nam nộp Hợp Đồng Nhà Phân Phối thay cho hợp đồng mua bán với KMV. Từ Hợp Đồng Nhà Phân Phối do Sao Nam xuất trình, tôi yêu cầu tòa án buộc Sao Nam xuất trình Giấy Chứng Nhận Phân Phối Ủy Quyền. Các tài liệu này đã phản ánh đúng thực tế là KMV ủy quyền cho Sao Nam bán máy in cho Saigonbook nhưng tại tòa, KMV chối bỏ sự ủy quyền và chối luôn tư cách là bên giao Đại lý cho Sao Nam để trốn trách nhiệm và nghĩa vụ của bên giao đại lý ủy quyền. Tuy nhiên, việc chối tư cách bên giao đại lý ủy quyền diễn ra chậm, vì Luật sư tiến sĩ Lê Nết không hiểu quan hệ pháp luật của Đại lý Thương Mại theo qui định tại Mục 4 Chương V Luật Thương mại 2005. Trong văn bản gửi Ban Tuyên Giáo Trung Ương, ngày 23/11/2015, ngay từ trang 1, Lê Nết ghi nhận: “Sao Nam – Đại lý phân phối của KMV”. Tại biên bản hòa giải không thành ngày 28-12.2015, Saigonbook viện dẫn Điều 170 Luật Thương mại 2005 để xác định KMV là chủ sở hữu máy in C1100, nhưng Luật sư tiến sĩ Lê Nết cũng không chối tư cách bên giao Đại lý của KMV, vì lúc đó, Luật sư tiến sĩ Lê Nết chưa nhận thức được ý nghĩa của Điều 170 Luật Thương mại 2005.  Chỉ sau ngày 28-12-2015, các luật sư của KMV mới bắt đầu chú ý nghiên cứu Điều 170 Luật thương mại 2005, để rồi sau đó, họ chối dần tư cách bên giao Đại lý của KMV. Việc KMV chối tư cách bên giao đại lý cho Sao Nam lại mâu thuẫn với lời trình bày của KMV trong biên bản hòa giải không thành ngày 15-12-2015. Trong biên bản hòa giải không thành ngày 15-12-2015, KMV thừa nhận Sao Nam là đại lý của KMV và giải thích quan hệ giữa hai bên theo Điều 166 Luật Thương mại 2005. Tại trang 3, bút lục 466, biên bản hòa giải không thành ngày 15-01-2016, trong phần giải thích về bảo hành, Sao Nam thừa nhận họ là Đại lý được ủy quyền của KMV. Phiếu bảo hành máy in C1100, do KMV phát hành, cũng thể hiện rõ, Sao Nam là một đại lý ủy quyền của KMV thì việc lắp đặt, bảo trì, sửa chữa này mới được KMV bảo hành. Giữa Sao NamKMV không có hợp đồng mua bán theo qui định bắt buộc tại Điều 27 Luật Thương mại 2005 mà chỉ có Hợp Đồng Nhà Phân Phối, và Sao Nam đã được cấp Giấy chứng nhận đại lý theo qui định tại Điều III.5 của Hợp Đồng Nhà Phân Phối. Tài liệu thể hiện tư cách KMV là bên giao đại lý và là bên ủy quyền cho Sao Nam nhưng KMV chối bỏ tư cách này để trốn tránh trách nhiệm liên đới theo qui định tại Điều 173 khoản 5 Luật Thương mại 2005. Việc chối bỏ quan hệ đại lý như thế này cũng là hành vi lừa dối về chủ thể.

Có một điều rất đặc biệt là tôi đã nhận ra thủ đoạn che giấu quan hệ đại lý ủy quyền của KMV, nên khi hợp đồng mua máy C1100 với STS, tôi yêu cầu STS ghi vào Điều 08 khoản 4 của hợp đồng, ghi nhận STS cũng là đại lý của KMV. Tại tòa, KMV thừa nhận Sao NamSTS đều là hai Nhà Phân Phối của họ nhưng họ chối bỏ quan hệ đại lý để trốn tránh trách nhiệm đối với vụ kiện này. Nhưng lúc thảo luận thu hồi máy, ông Đào Việt Linh nói với tôi rằng, với sản phẩm máy in kỹ thuật số đặc thù này, KMV chỉ có thể bán trực tiếp hoặc bán qua một đại lý được ủy quyền, vì sau khi bán máy, còn phần dịch vụ Click Charge đi cùng. Nếu chỉ bán máy mà không có phần Click Charge thì khách hàng không thể in được vì phần này do Konica Minotla độc quyền.

Luật Thương mại 2005 không có điều khoản nào điều chỉnh quan hệ phân phối. Muốn áp dụng Luật Thương mại 2005, phải xác định đúng quan hệ giữa KMV với Sao Nam. Theo qui định tại Điều 3 Nghị định 23/2007/NĐ-CP của Chính phủ thì “Phân phối là các hoạt động bán buôn, bán lẻ, đại lý mua bán hàng hóa và nhượng quyền thương mại“. Quan hệ giữa KMVSao Nam chỉ thuộc một trong 4 dạng phân phối cụ thể này và phải xác định quan hệ phân phối cụ thể để áp dụng pháp luật. Đây là máy in nhập khẩu có giá trị cao, nếu mua bán thì phải có hợp đồng bằng văn bản theo qui định tại Điều 27 Luật Thương mại 2005. Giữa KMVSao Nam không có hợp đồng mua bán nên không thể áp dụng các qui định tại Chương II – Mua Bán Hàng Hóa, mà chỉ có thể áp dụng các qui định tại Chương V – Trung Gian Thương Mại, mà cụ thể là, phải áp dụng các qui định từ Điều 166 đến Điều 177 Luật Thương mại 2005.

Tại biên bản hòa giải không thành ngày 21-01-2016, KMVSao Nam đều từ chối cung cấp tài liệu chứng cứ theo đơn ngày 19-01-2016 và đơn ngày 21-01-2016 của Saigonbook, nhưng trong hồ sơ vụ án lại có bản phô tô liên 2 – hóa đơn 0000393, do KMV nộp cùng với các tài liệu khác. Bản phô tô hóa đơn 0000393 là giả mạo vì liên 2 là liên giao cho khách hàng, KMV không thể còn liên này để mà phô tô nộp cho tòa. Bảng liệt kê danh mục tài liệu thì hóa đơn 0000393 đề ngày 29-12-2014 nhưng bản phô tô hóa đơn 0000393 thì ghi ngày 30-11-2014. Theo bộ tờ khai thuế quý IV năm 2014 của Sao Nam thì hóa đơn 0000393 đã bị khai sai ngày và được điều chỉnh đúng ngày 30-12-2014, là ngày ký biên bản bàn giao máy in C1100. Theo tờ khai nhập khẩu thì ngày 01-12-2014, KMV mới nộp tờ khai thông quan máy in C1100 thì KMV chưa có máy in để xuất bán cho Sao Nam. Hóa đơn 0000393 là hóa đơn viết tay nhưng không có chữ ký của người viết hóa đơn, khác với các hóa đơn thông thường của KMV được in ra từ máy in. Tadasu Ichino là Tổng giám đốc KMV, người Nhật, không biết tiếng Việt để đọc hóa đơn và chịu trách nhiệm về chứng từ khai thuế. Tadasu cũng không có đủ thời gian để mà trực tiếp ký hóa đơn cho từng sản phẩm của KMV. Chắc chắn, bản phô hóa đơn 0000393 là giả mạo, được làm ra và đưa vào hồ sơ vụ án sau khi đã xét xử sơ thẩm, nhằm trốn trách nhiệm cho KMV. Theo Điều 95 BLTTDS 2015 thì “Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng” và tài liệu này cũng phải được giao nộp theo qui định tại Điều 96 BLTTDS 2015. Nghĩa là, Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho tòa án thì họ sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho Saigonbook nhưng KMV đã lén lút nộp hóa đơn 0000393 cho tòa sau ngày 14-04-2016 vì danh mục đề ngày 14-04-2016. Ngày 14-04-2016 là ngày diễn ra phiên tòa sơ thẩm nhưng KMV không nộp trong ngày này, vì trang 2 biên bản phiên tòa sơ thẩm đã thể hiện, khi được hỏi “Các đương sự có nộp thêm chứng cứ mới, có yêu cầu triệu tập người làm chứng không?“. Các đương sự đều trả lời không. KMV chỉ có thể nộp bản phô tô hóa đơn 0000393 trong thời gian Thẩm phán Phù Quốc Tuấn ngồi ở nhà viết bản án sơ thẩm, tức là, từ chiều 14-04-2016 đến sáng 19-04-2016, để Thẩm phán Phù Quốc Tuấn làm tài liệu viện dẫn tại trang 15 bản án sơ thẩm.

2. Hành vi lừa giá: (Click để xem Video).

Khi mua máy C1070P thì tôi chưa biết đến KMV nhưng khi mua máy C1100 thì tôi đã đàm phán trực tiếp với phía KMV. Tôi đòi trực tiếp ký hợp đồng với KMV để loại bỏ phí hoa hồng đại lý. Lúc đó, ông Đào Việt Linh nói với tôi rằng “Anh ký hợp đồng với tụi em hay ký hợp đồng với đại lý thì giá cũng như nhau. Sao Nam với tụi em là một”. Và KMV ủy quyền cho Sao Nam báo giá và ký hợp đồng sau khi thương lượng. Hợp Đồng Nhà Phân PhốiSao Nam nộp cho tòa cũng thể hiện Điều II.2 là “Giá của sản phẩm Konica Minolta tại thị trường Việt Nam do bên A ban hành và được thống nhất sử dụng trên toàn quốc“, nhưng giá máy C1100Sao Nam đã bán cho tôi gấp 3 lần giá máy C1100 mà tôi đã mai phục mua của STS. So sánh giá máy C1100 tại các phiếu báo giá của KMV, cùng các đại lý do KMV ủy quyền báo giá, sẽ thấy hành vi lừa giá là phương cách kinh doanh của họ: Ngày 16/7/2015 Sao Nam báo giá máy C1100 là 2.000.000.000 đồng. Ngày 20/7/2015 KMV báo giá máy C1100 là 2.200.000.000 đồng nhưng ngày 23/7/2015 KMV báo giá máy C1100 là 3.300.546.000 đồng. Chỉ cách nhau 3 ngày mà giá máy C1100 chênh lệch hơn 1,1 tỉ đồng. Thế nhưng, Tadasu Ichino lại ủy quyền cho Lê Nết gửi Văn bản trả lời Saigonbook và báo chí Việt Nam là “KMV nhập khẩu thiết bị, máy móc chất lượng cao vào Việt Nam vào các thời điểm khác nhau và với giá cả khác nhau”. Giải thích của Lê Nết, một lần nữa cho thấy, sự dối trá là bản chất ngoan cố Tadasu Ichino, Lê Nết và đồng bọn. Ngày 17/7/2015 KMV ủy quyền cho Sao-Nam An báo giá máy C1100 là 3.870.000.000 đồng; Ngày 17/7/2015, KMV ủy quyền cho STS báo giá máy C1100 là 1.800.000.000 đồng. Ngày 20/7/2015, KMV ủy quyền cho STS báo giá máy C1100 là 1.700.000.000 đồng. Ngày 20/7/2015, KMV ủy quyền cho STS báo giá máy C1100 là 1.289.278.000 đồng. Ngày 24/7/2015, KMV ủy quyền cho STS báo giá máy C1100 là 1.900.000.000 đồng. Ngày 27/7/2015, KMV ủy quyền cho STS – chi nhánh Hà Nội báo giá máy C1100 là 1.900.000.000 đồng. Theo lời đại diện của KMV, ông Đào Việt Linh và ông Trần Vũ, Saigonbook là người đầu tiên mua máy C1100 để xậy dựng Printing Shop, gắn liền với thương hiệu của Konica Minolta, nên tôi được giảm giá đặc biệt 20% như đã thể hiện trên Bảng Chào giá số 128, nhưng tôi phải mua máy C1100 với giá 3.409.211.000 đồng. Chính nhờ thu thập được các phiếu báo giá của KMV và mua thêm máy C1100 từ STS để làm bằng chứng, nên KMVSao Nam phải chấp nhận thu hồi máy với đề nghị phải giữ bí mật cho họ. Văn bản ngày 25/7/2015 của Saigonbook, gửi qua email hệ thống công ty cho các ông Osafumi Kawamura, ông Tadasu Ichino, ông Đào Việt Linh, Trần Kim Chung, Trần Văn Nhật và bà Lưu Ngọc Thúy Vân, tuyên bố hủy hợp đồng vì bị KMVSao Nam lừa dối. Tại thời điểm 25/7/2015, chúng tôi chỉ phát hiện hai hành vi lừa dối là Lừa dối về tư cách ký hợp đồng, tức là lừa về chủ thể, và hành vi lừa dối về giá. KMVSao Nam đã thừa nhận các hành vi lừa dối này bằng hành vi thu hồi máy và đã thu hồi máy C1070P. Vấn đề chỉ còn tranh cãi ở chỗ là KMVSao Nam đề nghị mua lại máy C1100 vì họ cho rằng họ bán cho ACBL chứ không bán cho Saigonbook. Theo qui định tại Điều 92 khoản 2 BLTTDS 2015 thì các hành vi lừa dối của KMVSao NamSaigonbook nêu trong văn bản ngày 25-7-2015 là những hành vi lừa dối đã được KMVSao Nam thừa nhận nên Saigonbook không phải chứng minh nữa.
KMVSao Nam đã không công khai thông tin về giá theo qui định tại Điều 6 khoản 2 Luật Giá 2012 và không Niêm yết giá theo qui định tại Điều 12 khoản 5 Luật Giá 2012. Nếu KMV hoặc các đại lý của họ niêm yết giá theo qui định của Luật Giá thì tại mỗi thời điểm, tại một địa điểm xác định, thì mỗi hàng hóa chỉ có giá duy nhất và họ không thể “bán cao hơn giá niêm yết’ theo qui định tại Điều 12 khoản 5 Luật Giá. KMV và các đại lý của họ đã cố ý không làm một việc mà pháp luật buộc phải làm cũng là một hành vi lừa dối.

3. Hành vi lừa khuyến mại: (Click để xem Video).

KMV có hai hành vi khuyến mại thể hiện qua tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Một là giảm giá đặc biệt 20%, hai là tặng bộ UPS. Theo thỏa thuận giữa đại diện KMV, mà cụ thể là ông Đỗ Giang Khánh, ông Trần Vũ và ông Đào Việt Linh, với tôi thì Saigonbook cho KMV treo các bảng hiệu quảng cáo thương hiệu Konica Minolta tại Printing Shop, miễn phí, và KMV bán máy và vật tư tiêu hao rẻ hơn bán cho các đối tác khác là 20%. Bảng Chào Giá số 128 đã thể hiện 20% này. KMV ủy quyền cho Sao Nam báo giá và ký hợp đồng bán máy, còn vật tư tiêu hao thì KMV hứa sẽ bán sau khi máy được lắp đặt máy. Chính vì thế, nên ngay sau khi ký biên bản hoàn tất việc lắp đặt ngày 5/1/2015 thì ngày 7-1-2015, ông Trần Vũ và ông Đào Việt Linh đã mang BẢNG CHÀO GIÁ dịch vụ tính phí theo trang in đến gặp tôi để ký hợp đồng Click Charge. Vì được hứa hẹn giảm giá 20% đối với máy móc và vật tư tiêu hao để hỗ trợ cho Saigonbook làm Printing Shop gắn với thương hiệu Konica Minolta, nên tôi mới ký hợp đồng mua máy C1100 và phá bỏ Trung Tâm Sách Sài Gòn. Nhưng khi điều tra thu thập các phiếu báo giá thì tôi mới biết KMV nâng giá lên 3.873.990.185 đồng, rồi lừa giảm giá 20%, chứ thực chất, KMV không bán cho ai giá đó cả. Theo qui định tại Điều 92 Luật Thương mại 2005 thì hành vi tặng bộ UPS và giảm giá đặc biệt 20% đều là các hình thức khuyến mại và phải làm thủ tục đặng ký hoặc thông báo với Sở Công thương. Thẩm phán Phù Quốc Tuấn đã gửi công văn số 931/TAQ3 đến Sở Công thương Thành phố Hồ Chí Minh để xác minh thủ tục khuyến mại nhưng KMVSao Nam không làm thủ tục khuyến mại nên KMVSao Nam trả lời với tòa rằng họ không khuyến mại. Các luật sư của KMVSao Nam đều không giải thích được hành vi giảm giá và tặng bộ UPS là gì, nằm ở điều khoản nào theo qui định của pháp luật, để tòa án áp dụng pháp luật. Trong khi đó, Saigonbook hiểu rằng, giảm giá và tặng quà là hình thức khuyến mại. Vì được khuyến mại nên Saigonbook mới ký hợp đồng mua máy C1100. Theo qui định tại Điều 131 BLDS 2005 thì  “Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo qui định tại Điều 132 của Bộ luật này”, tức là vô hiệu do lừa dối. Theo lời ông Đỗ Giang Khánh thì KMV nhập khẩu bộ UPS từ Mỹ nên về chậm

4. Hành vi lừa xuất xứ: (Click xem Video).

Như đã tường trình ở bài 1 “Bị lừa ngay từ chiếc máy đầu tiên, C1070P“, Sao Nam lừa xuất xứ hàng hóa từ khi xác lập hợp đồng 018. Tôi tìm mua máy của Konica Minolta là có ý định mua máy được sản xuất tại Nhật Bản. Tôi hoàn toàn không nghĩ rằng máy in kỹ thuật số hiện đại này lại có thể sản xuất ở Trung Quốc. Tôi nói rõ nhu cầu là tôi cần mua máy mới 100% được sản xuất từ Nhật Bản. Cô Lưu Ngọc Thúy Vân cũng nói với tôi rằng, sau khi tôi đặt cọc thì Sao Nam mới đặt hàng cho Konica Minolta nhập khẩu từ Nhật Bản. Lúc này tôi chưa biết đến KMV. Khi ký hợp đồng 018 mua máy C1070P thì tôi không để ý đến việc thông tin xuất xứ. Tôi giao cho em Nguyễn Công Bình nhận máy và vận hành theo sự hướng dẫn của Sao Nam. Em Nguyễn Công Bình không thể biết tôi hợp đồng mua máy được sản xuất từ Trung Quốc hay Nhật Bản để mà kiểm tra. Là người chủ, chịu trách nhiệm điều hành cả hai công ty ở hai nơi nên tôi không thể kiểm tra chi tiết xuất xứ máy. Đến khi mua máy C1100 thì ông Trần Minh Nhật, ông Đỗ Giang Khánh, ông Trần Vũ, ông Đào Việt Linh đều nói với tôi rằng “Đây là chiếc máy in kỹ thuật số hiện đại được sản xuất tại Nhật Bản năm 2014, mới xuất qua thị trường châu Âu và Bắc Mỹ 9 chiếc, qua thị trường châu Á 2 chiếc, là Ấn Độ và Trung Quốc mỗi nơi một chiếc. Nếu anh mua thì đây sẽ là chiếc máy in hiện đại nhất Đông Nam Á, lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam”. Và giới thiệu cho tôi chiếc máy in C1100 này để tôi trang bị cho Printing Shop. Nhưng khi soạn thảo Bảng Chào giá số 128hợp đồng 038 thì Sao Nam không đưa thông tin xuất xứ. Tôi ký hợp đồng 038 ngày 20/10/2014 và chuyển tiền đợt 1 cho Sao Nam. Đến ngày 9/12/2014, Sao Nam thông báo giao hàng thì tôi bị thiếu tiền thanh toán đợt hai, do vừa sửa Printing Shop theo thiết kế của Konica Minolta. Tôi bàn với ông Trần Kim Chung xin trả chậm nhưng ông Trần Kim Chung không chịu nên tôi phải vay ngân hàng bằng thủ tục thuê tài chính, dùng chiếc máy C1100 này làm tài sản bảo đảm cho khoản vay. ACBL thu thập thông tin từ bên cung ứng là Sao NamKMV để đối chiếu với hợp đồng 038ACBL đã thu thập từ Saigonbook. Do hợp đồng 038 thiếu thông tin xuất xứ nên ACBL đòi bổ sung. Tôi và ông Trần Kim Chung đều tái khẳng định là chúng tôi mua bán máy C1100 được sản xuất tại Nhật Bản – xuất xứ Nhật Bản. ACBL soạn thảo hợp đồng 03 với nội dung hoàn toàn giống như hợp đồng 038, chỉ bổ sung thông tin xuất xứ mà ở hợp đồng 038 để trống. Các bên: ACBLSaigonbookSao Nam ký tên vào hợp đồng 03, đối tượng mua bán của hợp đồng 03 là máy C1100 có xuất xứ là Nhật Bản. Sau ngày ký hợp đồng 03 chừng một ngày, các bên còn ký thêm phụ lục hợp đồng 03, với đối tượng mua bán là máy C1100 có xuất xứ Nhật Bản. Ngày 30-12-2014, các bên ký biên bản bàn giao tại sản là máy C1100 có xuất xứ Nhật Bản.

Tôi hoàn toàn không phát hiện ra các máy in đã mua của Konica Minolta được sản xuất tại Trung Quốc. Khi mua máy in C1100 từ STS để đối chứng giá với máy in C1100 đã mua qua Sao Nam, tôi cũng chỉ chú ý đến giá – yếu tố làm cho tôi không kinh doanh được, chứ không để ý đến xuất xứ. Trong hợp đồng do STS soạn thảo có ghi xuất xứ máy nhưng rồi STS bỏ trống thông tin xuất xứ. Sau này, tôi mới nghiệm ra là KMV đã chỉ đạo cho STS sửa hợp đồng, bỏ trống xuất xứ để tôi không phát hiện xuất xứ Trung Quốc từ máy C1100 đã mua qua Sao Nam. Các phiếu báo giá máy C1100 mà tôi đã thu thập được cũng không có thông tin xuất xứ. Đặc biệt, Bảng Báo Giá của STS – chi nhánh Hà Nội thì lại ghi “xuất xứ của hãng Konica Minolta. Với thông tin như thế thì không ai nghĩ rằng xuất xứ của hãng Konica Minolta là xuất xứ ở đâu khác, ngoài Nhật Bản.

Tôi không phát hiện ra mình bị lừa xuất xứ máy nên trong đơn khởi kiện này 10/11/2015, tôi không nêu hành vi lừa xuất xứ. Để có cơ sở trả lại máy in cho KMVSao Nam, Thẩm phán Phù Quốc Tuấn yêu cầu tôi thuê Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận hiện trạng máy in C1100 của Sao Nam và hiện trạng Printing Shop. Ngày 11/11/2016, Thừa Phát Lại Quận Gò Vấp đã lập Vi bằng số 89 và Vi bằng số 90. Cả hai vi bằng này đều không ghi nhận tình trạng xuất xứ máy vì tôi không phát hiện xuất xứ máy Trung Quốc. Tại biên bản hòa giải không thành ngày 15/01/2016, KMVSao Nam đều không phản đối gì về hai vi bằng mà tôi cung cấp cho tòa. Sau buổi hòa giải ngày 15/01/2016, vào một đêm khuya, tôi lục tìm bộ tờ khai nhập khẩu mà ông Đào Việt Linh và ông Trần Vũ đã giao cho tôi ngày 6-02.2015 để tìm hiểu về số máy C100 nhập khẩu trong đợt này và giá nhập khẩu để khiếu nại trong phiên hòa giải sắp tới. Vì bộ tờ khai nhập khẩu này bị KMV che giấu giá nên ngày 19/01/2016, tôi viết đơn đề nghị tòa án thu thập chứng cứ bộ tờ khai nhập khẩu từ phía KMV cùng với giải trình về giá nhập khẩu. Ngày 21/01/2016, tôi thêm đơn yêu cầu tòa án thu thập chứng cứ từ phía Sao Nam. Tại biên bản hòa giải không thành ngày 21.01.2016, đại diện KMVSao Nam đều từ chối cung cấp các tài liệu này với lý do “vì các chứng cứ không liên quan đến vụ án“. Đại diện KMV là bà Nguyễn Thị Điệp và ông Tống Khánh Trình đã gửi văn bản đề ngày 21/01/2016 cho Tòa án nhân dân Quận 3 nêu rõ lý do không cung cấp chứng cứ theo đơn đề ngày 19/01/2016 của Saigonbook. Sao Nam gửi văn bản đề ngày 22/01/2016 cho Tòa án giải thích các tài liệu nộp kèm theo văn bản này, gồm Giấy chứng nhận Nhà Phân Phối, Phiếu bảo hành và hoàn toàn không đề cập đến bộ tờ khai nhập khẩu. Như vậy là, cho đến ngày 21/01/2016, KMVSao Nam đều không biết Saigonbok có bộ tờ khai nhập khẩu và có bằng cách nào.

Vì theo đuổi vụ kiện nên tôi thức khuya để tìm hiểu cách chứng minh thêm sự lừa dối sao cho thuyết phục. Tối ngày 23-01-2016, tôi lục tìm tài liệu và săm soi bộ tờ khai nhập khẩu. Bất ngờ, tôi phát hiện các chi tiết máy C1100 đều có Made in China, chỉ có chi tiết IC-602 là sản xuất tại Mỹ. Sáng ngày 26-01-2016, tôi đem bộ tờ khai nhập khẩu này cùng với văn bản chứng cứ mới và trình bày bổ sung, nộp cho Thẩm phán Phù Quốc Tuấn. Sau khi xem bộ tờ khai nhập khẩu có các chi tiết máy sản xuất tại Trung Quốc vói lời trình bày bổ sung, Thẩm phán Phù Quốc Tuấn thốt lên rằng “Họ nó lừa anh như thế là quá đủ rồi còn gì“. Thẩm phán Phù Quốc Tuấn yêu cầu tôi lập Vi bằng ghi nhận hiện trạng máy in có xuất xứ Trung Quốc để nộp cho tòa vì bộ tờ khai nhập khẩu là chưa thể được coi là tài liệu chứng cứ về xuất xứ. Ngày 27/01/2016, Thừa Phát Lại Quận Gò Vấp đã lập Vi bằng ghi nhận hiện trạng máy có xuất xứ Trung Quốc. Tôi và ông Đồng Quốc Tuấn – Thừa phát lại Quận Gò Vấp, mở nắp máy, cúi sát người vào từng chi tiết mới đọc được những dòng chữ Made in China. Do tính chất nghiêm trọng của hành vi lừa xuất xứ, nên Thẩm phán Phù Quốc Tuấn nói với tôi rằng, ông phải dời thời điểm dự định đưa vụ án ra xét xử để báo cho Viện kiểm sát quận 3 và công khai tài liệu chứng cứ xuất xứ Trung Quốc và tiến hành hòa giải thêm một lần nữa. Thông tin về máy có xuất xứ Trung Quốc lộ ra, Thẩm phán Phù Quốc Tuấn kéo dài thời gian để cho phía KMVSao Nam tìm cách giải trình về bộ chứng từ nhập khẩu và xuất xứ Trung Quốc. Mãi đến ngày 01/3/2016, Thẩm phán Phù Quốc Tuấn mới tiến hành hòa giải, công khai tài liệu bộ hồ sơ nhập khẩu và vi bằng xuất xứ Trung Quốc. Tại lần hòa giải ngày 1/3/2016, KMV chối việc cung cấp bộ tờ khai nhập khẩu có chữ ký của Tadasu Ichino, còn Sao Nam nhận bừa rằng họ đã cung cấp bộ tờ khai nhập khẩu này cho Saigonbook vào tháng 02/2015 nhưng không nhớ ngày. Sao Nam khai rằng, “Khi bàn giao máy, Cty Sao Nam có hướng dẫn Saigonbook kiểm tra thân máy C1100. Và tại thân máy có ghi Made in China“. Không có ai hướng dẫn Saigonbook kiểm tra thân máy và nhìn thấy Made in China như lời khai của Sao Nam. Lời khai dối trá này của Sao Nam là mâu thuẫn với biên bản bàn giao máy có xuất xứ là Nhật Bản. Trong biên bản bàn giao tài sản xuất xứ máy C1100 là Nhật Bản, bên cạnh chữ xuất xứ Nhật Bản, có chữ viết bằng bút mực của ông Phạm Nhật Vũ là nhân viên kỹ thuật của Sao Nam nhưng ông Phạm Nhật Vũ không sửa chữa xuất xứ.Vì Sao NamKMV phối hợp khai dối, nên họ không biết giao vì lý do gì mà họ giao bộ tờ khai nhập khẩu có chữ ký của Tadasu Ichino. Tại biên bản phiên tòa ngày 14/04/2016, Sao Nam khai giao bộ tờ khai nhập khẩu này cho Saigonbook vào thời điểm tháng 12 năm 2014 cho phù hợp với thời gian bàn giao máy, nhưng đến biên bản phiên tòa ngày 19/04/2016 thì Sao Nam lại khai giao bộ tờ khai nhập khẩu này vào tháng 02 năm 2015, mà giao vào tháng 02 năm 2015 là không khớp với thời gian bàn giao máy nên không thể là chứng từ để kiểm tra xuất xứ. Chứng từ để kiểm tra xuất xứ phải là Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) như Công ty Ricoh và Công ty Duplo đã giao cho Saigonbook, chứ không ai lại đi giao bộ tờ khai nhập khẩu dài thòng như thế để đối chiếu xuất xứ. Tập quán thương mại, được qui định tại Điều 13 Luật Thương mại 2005, là Giao giấy chứng nhận xuất xứ, chứ không ai giao bộ tờ khai nhập khẩu thay cho Giấy chứng nhận xuất xứ.

Theo Điều 11 Nghị định 89 thì xuất xứ hàng hóa là một trong ba nội dung bắt buộc phải ghi trên nhãn hàng hóa. Người có họ, tên và tên lót. Nếu chưa phân biệt được thì người ta phải thêm ngày tháng năm sinh để định danh, phân biệt người này với người khác. Hàng hóa có nhãn hàng hóa để định danh, phân biệt hàng hóa này với hàng hóa khác. Nếu ba thông tin bắt buộc, qui định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định 89, chưa đủ để định danh thì ngoài nội dung bắt buộc qui định ở khoản 1 Điều 11 Nghị định 89, còn có thông tin qui định tại Điều 12 Nghị định 89. Vì trong hợp đồng 038 thiếu thông tin xuất xứ là thông tin định danh, bắt buộc phải thể hiện theo Điều 11 Nghị định 89, nên ACBL hỏi để đưa thêm vào hợp đồng. Sao Nam, Saigonbook ký tên vào hợp đồng 03 là tái xác định hai bên đã thỏa thuận mua máy C1100 có xuất xứ Nhật Bản tại hợp đồng 038. Tại thời điểm ký hợp đồng 03, ngày 27/12/2014, ông Trần Kim Chung không thể để lộ thông tin xuất xứ Trung Quốc, vì trước đó Sao NamKMV đều nói với Saigonbook là máy C1100 được sản xuất tại Nhật Bản. Nếu lộ thông tin xuất xứ Trung Quốc thì ACBL không cho vay số tiền đến hơn 2,6 tỉ đồng và Saigonbook cũng không nhận máy có xuất xứ Trung Quốc. Do đó, tình thế bắt buộc ông Trần Kim Chung phải im lặng, ký tên vào hợp đồng 03, mà đối tượng của hợp đồng 03 là máy C1100 có xuất xứ Nhật Bản. Tại trang 9, quyết định giám đốc thẩm nhận định “Xuất xứ hàng hóa làm một trong ba thông tin định danh nhãn hàng hóa nhập khẩu, bắt buộc phải thể hiện trong hợp đồng” là hoàn toàn chính xác, vì nếu thiếu thông tin xuất xứ thì nhãn hàng hóa chưa đủ thông tin định danh và như thế thì đối tượng mua bán của hợp đồng 038 chưa được xác định.

Đối chiếu với hợp đồng số 029hợp đồng số 032 do Sao Nam soạn thảo để bán máy in cho anh Đặng Mai Diệu, ta sẽ thấy, từ năm 2012, ông Trần Kim Chung đã đưa thông tin xuất sứ đúng với qui định về nhãn hàng hóa tại Điều Nghị định 89, thông tin xuất xứ Trung Quốc ghi bên dưới thông tin nhà sản xuất Konica Minolta. Nhưng đến hợp đồng 018 và hợp đồng 038 với Saigonbook thì Sao Nam không ghi xuất xứ Trung Quốc và nói miệng là xuất xứ Nhât Bản vì Saigonbook đòi máy có xuất xứ Nhật Bản. Sao Nam đã cố ý làm cho Saigonbook hiểu máy có xuất xứ Nhật Bản để Saigonbookhợp đồng 018hợp đồng 038 với giá rất cao, cả hai máy lệch với giá thị trường đến hơn 2,66 tỉ đồng. Hành vi lừa xuất xứ chỉ để Saigonbook xác lập hợp đồng mà còn là để bán được với giá cao. Hành vi lừa xuất xứ gắn liền với hành vi lừa giá.

Một tập đoàn như Konica Minotla mà không rõ ràng về xuất xứ hàng hóa là điều không thể chấp nhận được. Một đại lý bán máy móc nhập khẩu lâu năm như Sao Nam và không ghi thông tin xuất xứ vào phiếu báo giá và hợp đồng là hành vi cố ý để cho Saigonbook hiểu sai về xuất xứ. Trong trường hợp này, nếu khách hàng nhầm lẫn xuất xứ theo qui định tại Điều 131 BLDS 2005 thì phải chuyển sang giải quyết theo qui định tại Điều 132 BLDS 2005, nghĩa là, hợp đồng 038 vô hiệu do lừa dối, kéo theo hợp đồng 03 cũng vô hiệu do lừa dối.

5. Hành vi lừa bảo hành: (Click để xem Video).

Bảo hành máy mới khác với bảo hành máy cũ. Khi người ta mua chiếc máy cũ, được tân trang lại, thì bảo hành là theo hợp đồng giữa các bên. Nhưng nếu mua máy mới thì bảo hành phải theo qui định của nhà sản xuất. Đơn vị thương mại không được tùy tiện qui định bảo hành. Mua một nồi cơm điện hoặc máy móc trong siêu thị, nhân viên bán hàng phải giao phiếu bảo hành kèm theo hàng hóa, trong đó có ghi ngày mua. Doanh nghiệp thương mại không được thay mặt nhà sản xuất làm ra phiếu bảo hành. Đối với các máy in mới của hãng Konica Minolta cũng có qui định bảo hành thể hiện trên Phiếu bảo hành. Điều II.4 Hợp Đồng Nhà Phân Phối giữa KMVSao Nam có qui định “Tất cả sản phẩm Konica Minolta sẽ được giao kèm phiếu bảo hành, khách hàng dùng cuối phải đăng ký với bên A“, nhưng Sao Nam không giao Phiếu bảo hành. Phiếu bảo hành qui định bảo hành theo hai thông số: Theo thời gian là 36 tháng hoặc theo sản phẩm là 9 triệu bản in. Thế nhưng, Sao Nam hạ thời hạn bảo hành còn 12 tháng để ghi vào hợp đồng và bỏ qua thông số 9 triệu bản in, trong tất cả các hợp đồng 018, hợp đồng 38, hợp đồng 03, và các hợp đồng 029, hợp đồng 032 với anh Đặng Mai Diệu. Với cách làm này, Sao Nam ăn chặn tiền bảo hành từ nhà sản xuất. Sau 12 tháng, vẫn còn trong thời hạn để nhà sản xuất bảo hành. Nếu có chi tiết máy hỏng hóc thì Sao Nam sẽ báo với nhà sản xuất để họ gửi miễn phí những chi tiết mới để thay thế. Sau khi thay thế, Sao Nam sẽ thu tiền của khách hàng và thu lại chi tiết hỏng hóc để gửi trả lại cho nhà sản xuất Konica Minolta theo qui định tại ĐIỀU VII.b của hợp đồng 038. Với thủ đoạn này, Sao Nam ăn chặn tiền bảo hành của tất cả các khách hàng trong thời gian dài nhưng không bị phát hiện vì Sao Nam che giấu tư cách đại lý được ủy quyền và không giao Phiếu bảo hành. Vì không biết có Phiếu bảo hành nên tôi không thể đòi Phiếu bảo hành.

Khi phát hiện ra mình bị lừa về giá, tôi thu thập các phiếu báo giá và ký hợp đồng mua máy C1100 từ STS để làm đối chứng. Nhưng STS cũng không giao phiếu bảo hành và họ ghi vào hợp đồng thời hạn bảo hành là 5 năm. Nhưng điều này không có ý nghĩa để so sánh với hợp đồng của Sao Nam vì hợp đồng với STS là có phần Click Charge. Để tăng áp lực buộc KMVSao Nam thu hồi máy, tôi coi kỹ lại các phiếu báo giá. Bất ngờ, tôi phát hiện thời hạn bảo hành được ghi trong Bảng Chào Giá số 128 là 36 tháng nhưng thời hạn bảo hành ghi trong hợp đồng 038 là 12 tháng. Tôi gửi email ‘anh cảnh báo việc này’ đến ông Trần Kim Chung, Trần Minh Nhật và ông Đào Việt Linh, lúc 3 giờ 46 phút chiều ngày 24 tháng 07 năm 2015 và ông Trần Kim Chung đã gửi email trả lời lúc 5 giờ 31 phút chiều ngày 24 tháng 07 năm 2015. Ông Trần Kim Chung nhận lỗi và hứa điều chỉnh thời hạn bảo hành bằng một phụ lục hợp đồng và không đề cập đến thông số bảo hành theo sản phẩm và cũng không nhắc gì đến Phiếu bảo hành. Văn bản ngày 25/7/2015, gửi qua email, đến các ông Trần Kim Chung, Trần Văn Nhật, Osafumi Kawamura, Tadasu Ichino, Đào Việt Linh và bà Lưu Ngọc Thúy Vân, có đề cập đến lừa dối về tư cách ký hợp đồng của Sao Nam, dẫn đến gian dối về thời hạn bảo hành, nhưng cũng không biết KMV có qui định phải giao Phiếu bảo hành đi kèm với sản phẩm. Chính vì hai email gửi đi ngày 24/7/2015 và ngày 25/7/2015 mà Tadasu Ichino, Osafumi Kawamura, Đào Việt Linh chỉ đạo cho ông Trần Kim Chung tức tốc đàm phán thu hồi máy vào ngày 6/8/2015 với yêu cầu giữ bí mật hợp đồng. Như vậy, hành vi lừa bảo hành này đã bị Saigonbook cáo buộc từ ngày 24/7/2015 và ngày 25/7/2015 và đã được KMVSao Nam thừa nhận bằng hành vi thu hồi máy. Tuy nhiên, lúc này, Saigonbook cũng chưa biết có Phiếu bảo hành. Sau tháng 8 năm 2015, tôi tìm hiểu thêm về việc bảo hành của Sao Nam với các khách hàng khác thì phát hiện Sao Nam lừa bảo hành bằng cách hạ thời hạn bảo hành trong các hợp đồng. Tôi đề nghị anh Hoàng Văn Dũng khiếu nại với Sao NamKMV. Khi đó, Sao Nam mới điều chỉnh bảo hành cho anh Hoàng Văn Dũng bằng một phụ lục hợp đồng, với thời hạn là 36 tháng, ghi lùi ngày thành ngày 28/11/2014, nhưng thực chất, phụ lục hợp đồng này được điều chỉnh sau tháng 8 năm 2015. Những khách hàng mua máy qua đại lý Sao  Nam đều bị ăn chặn tiền bảo hành theo cùng một thủ đoạn.

Sau khi kiện KMVSao Nam ra tòa, tôi mới biết có Phiếu bảo hành qui định tại Điều II.4 Hợp Đồng Nhà Phân Phối. Ngày 21/1/2016, tôi có đơn đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, buộc Sao Nam nộp Phiếu bảo hành. Tại trang 3, biên bản hòa giải không thành ngày 21-01-2016, “Sao Nam không đồng ý nộp vì các chứng cứ không liên quan đến vụ án, Sao Nam sẽ nộp cho Tòa án bản photo Phiếu bảo hành của máy C1100“. Thế nhưng, trong hồ sơ vụ án lại có bản giải trình ngày 22-01-2016 của Sao Nam, cùng với các tài liệu mà Saigonbook yêu cầu Sao Nam giao nộp tại biên bản hòa giải ngày 21/01/2016. Trong bản giải trình này, Sao Nam viết rằng “Kể từ sau khi nghiệm thu máy C1100, Sao Nam đã liên hệ để cung cấp phiếu bảo hành cho Saigonbook nhưng Saigonbook do muốn trả lại máy nên không nhận“. Các tài liệu và văn bản giải trình ngày 22-01-2016, không được Sao Nam nộp trước ngày đưa vụ án ra xét xử, nên tôi hoàn toàn không biết đến bản giải trình ngày 22-01-2016. Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 14/4/2016 và ngày 19/4/2016, cũng thể hiện các bên cũng không nộp tài liệu gì thêm. Cùng với hóa đơn 0000393 và các tài liệu do KMV nộp sau ngày 14/4/2016, các tài liệu và bản giải trình của Sao Nam cũng nộp sau phiên tòa 14/4/2016 để Thẩm phán Phù Quốc Tuấn viết bản án. Các tài liệu này chưa được công bố, công khai theo qui định tài Điều 97 BLTTDS 2004. Biên bản hòa giải ngày 01/03/2016Biên bản hòa giải ngày 09/03/2016, là hai biên bản hòa giải cuối cùng, sau ngày 22-01-2016, đều không thể hiện các tài liệu được nộp theo bản giải trình ngày 22/01/2016 của Sao Nam. Trong hồ sơ vụ án, không có biên bản giao nhận các tài liệu này theo qui định tại Điều 84 khoản 2 BLTTDS 2004. Trong bản mục lục liệt kê bút lục sơ thẩm cũng không liệt kê bản giải trình ngày 22-01-2016 của Sao Nam.

Tại biên bản bổ sung phiên tòa phúc thẩm lần thứ hai, ngày 26/5/2021, trang 12 bút lục số 1259, Sao Nam cũng khai dối với Tòa là đã giao Phiếu bảo hành cho Saigonbook nhưng Saigonbook không nhận. Khi đại diện Viện kiểm sát hỏi “Sao Nam giải thích lý do sao Saigonbook không nhận phiếu bảo hành?” thì Sao Nam trả lời là “Dạ tại vì lúc đó ông Kim ổng muốn trả lại máy chứ ổng không tiếp tục dùng cái máy đó nữa“. Lời khai dối trá của Sao Nam mâu thuẫn với Điều II.4 Hợp Đồng Nhà Phân Phối giữa KMVSao NamTất cả sản phẩm Konica Minolta sẽ được giao kèm phiếu bảo hành”.Tại thời điểm nhận máy thì không có lý do gì Saigonbook lại từ chối nhận Phiếu bảo hành. Tại mục G trang 2 biên bản nghiệm thu ngày 26-03-2015, một lần nữa Sao Nam khẳng định: “Các thiết bị liệt kê tại điểm C sẽ chuyển sang chế độ bảo hành như qui định tại Điều 4 của Hợp đồng và phụ lục hợp đồng mua bán tài sản số 03.12.14/HĐMB-SG” mà Điều 4 của Hợp đồng này thì chỉ có 12 tháng. Biên bản nghiệm thu ngày 26-03-2015 không ghi nhận bàn giao Phiếu bảo hành, nhưng tại bản giải trình ngày 22-01-2016 và tại tòa, Sao Nam khai là “giao Phiếu bảo hành tại thời điểm nghiệm thu nhưng ông Kim không nhận”. Tôi gửi email đến Sao NamKMV lúc 3 giờ 46 phút chiều ngày 24-07-2015 và ông Trần Kim Chung gửi email xin lỗi và điều chỉnh bảo hành lúc 5 giờ 31 phút chiều ngày 24-07-2015. Hành vi lừa dối đã hoàn thành ngày 20-10-2014 là ngày ký kết hợp đồng 038, còn điều chỉnh bảo hành ngày 24-07-2015 biện pháp khắc phục hậu quả, không làm thay đổi bản chất hành vi lừa dối bảo hành đã diễn ra trước đó, tại thời điểm ký hợp đồng 038, ngày 20-10-2014, và được ghi nhận thêm một lần nữa tại biên bản nghiệm thu ngày 26-03-2015.

Một câu hỏi được đặt ra là, tại sao ở Bảng chào giá số 128, Sao Nam ghi bảo hành 36 tháng mà đến hợp đồng 038 sửa lại còn 12 tháng? Có ba lý do để giải thích cho câu hỏi này. Một là, sau khi ký hợp đồng, khách hàng thường không lưu bảng chào giá nữa, vì nó chẳng còn giá trị gì. Thậm chí sau khi trả hết tiền, máy hoạt động bình thường, tôi cũng không lưu giữ hợp đồng. Việc lưu lại Bảng Chào giá số 128 chỉ là sự vô tình của tôi. Hai là, từ Bảng chào giá 128 đến ký kết hợp đồng 038, các bên còn một quá trình thương lượng, có thể thay đổi các điều khoản. Thời gian bảo hành trong hợp đồng 038 ngày 20-10-2014, có thể khác với Bảng chào giá số 128 ngày 14-10-2014. Ba là, lợi ích về thời gian bảo hành là quá nhỏ, nên người ta ít quan tâm. Chính vì ba lý do nêu trên mà Sao Nam dễ dàng ăn chặn tiền bảo hành bằng ba thủ đoạn liên hoàn: Che giấu quan hệ ủy quyền với KMV, không giao phiếu bảo hành và hạ điều kiện bảo hành bằng một điều khoản của hợp đồng. Do phải theo đuổi vụ kiện này nên tôi mới phát hiện ra các thủ đoạn lừa dối liên hoàn của Sao Nam, chứ bình thường thì tôi cũng không thể phát hiện.

KMV, Sao Nam và các luật sư của họ, đã chuẩn bị cho việc khai báo gian dối này rất kỹ, từ lúc họ biết là không thể giải trình sự lừa dối về bảo hành nếu như không lý giải được vì sao không phát phiếu bảo hành. Họ cung cấp riêng cho Thẩm phán Phù Quốc Tuấn các tài liệu này và bản giải trình ngày 22-01-2016 để Thẩm phán Phù Quốc Tuấn viết án sơ thẩm và đưa vào hồ sơ vụ án, chuyển lên phúc thẩm, tạo điều kiện cho các luật sư của KMV viết án phúc thẩm, sửa án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Saigonbook.

6. Hành vi lừa Click Charge: (Click để xem Video)

Click Charge là phần hợp đồng tính phí trang in, được tính theo số đếm của đồng hồ được gắn trên thân máy. Cứ mỗi trang in A4 chạy qua thì đồng hồ đếm một Click charge. Phí này bao gồm mực, tiền vật tư tiêu hao và dịch vụ kỹ thuật do KMV độc quyền cung cấp và thu tiền hàng tháng, dựa trên số đếm của đồng hồ. Bên mua chỉ mua giấy, sắp giấy vào và bấm nút in. Toàn bộ phần còn lại, bao gồm: mực, vật tư tiêu hao và dịch vụ kỹ thuật đều do KMV chịu trách nhiệm. Không một cá nhân, tổ chức nào được thực hiện dịch vụ Click Charge này nếu như không được KMV ủy quyền. Phiếu bảo hành, Hợp Đồng Nhà Phân Phối, và Giấy Chứng Nhận Phân Phối Ủy Quyền thể hiện rất rõ điều này. Không có Click Charge do KMV cung cấp hoặc ủy quyền cho đại lý cung cấp thì máy sẽ không hoạt động được vì khách hàng không thể mua Click Charge trên thị trường. Mật khẩu để làm dịch vụ kỹ thuật do KMV hoặc đại lý được KMV ủy quyền nắm giữ để làm dịch vụ kỹ thuật, bảo vệ số đếm Click charge để thu tiền hàng tháng. Nếu khách hàng chậm trả tiền thì bên KMV không cung cấp Click Charge, khi đó, máy sẽ ngừng hoạt động. Vì thế, đối với máy in công nghiệp này, mua máy phải gắn liền với mua dịch vụ Click Charge.

Ở một số nước thì người ta cho thuê máy, cung cấp Click Charge, rồi phân bổ vào phí vào trang in để thu tiền hàng tháng. Thế nhưng, lợi dụng sự thiếu thông tin và thiếu hiểu biết của người Việt Nam về lĩnh vực in kỹ thuật số này, KMV ủy quyền cho Sao Nam hợp đồng bán máy nhưng không có phần Click Charge. Sau khi bán máy thì KMV hoặc đại lý do họ ủy quyền cũng cung cấp Click Charge nhưng không thu tiền qua số đếm của đồng hồ mà thu tiền mực, vật tư tiêu hao họ độc quyền cung cấp. Phí dịch vụ kỹ thuật được họ phân bổ vào mực, vật tư tiêu hao nên không cần tính phí, nhưng nếu không có dịch vụ kỹ thuật của họ thì máy cũng không thể hoạt động được. Với cách làm này, KMV hoặc Sao Nam có thể nâng giá mực, vật tư tiêu hao tùy ý, khách hàng không còn lựa chọn nào khác.

Sao Nam đã lừa Click Charge từ hợp đồng 018, bán máy C1070P mà không có phần Click Charge. Khi đàm phán mua máy C1100 thì tôi cũng không biết Click Charge là gì, vì lúc đó máy C1070P vừa lắp đặt, mới đưa vào hoạt động, chưa nghiệm thu. Sao Nam đang cho người hướng dẫn vận hành, cung cấp mực, vật tư và dịch vụ kỹ thuật, nên máy C1070P vẫn hoạt động bình thường. KMV ủy quyền cho Sao Nam báo giá và ký hợp đồng bán máy C1100, còn phần mực, vật tư tiêu hao và dịch vụ kỹ thuật thì họ giữ lại để bán trực tiếp cho Saigonbook làm Printing Shop. Vì chỉ có KMV mới bảo đảm cho Saigonbook được mua với giá rẻ hơn các khách hàng khác 20%. Máy vừa lắp đặt xong thì ông Phạm Thanh Vũ – nhân viên kỹ thuật của Sao Nam, mới nói cho tôi biết là máy C1100, muốn hoạt động phải ký hợp đồng Click Charge. Lúc đó, tôi mới được giải thích Click Charge là gì. Theo thỏa thuận trước đó với KMV về phần mực, vật tư và dịch vụ kỹ thuật sẽ do KMV đảm nhận, nên tôi gọi cho ông Đào Việt Linh và ông Trần Vũ, đề nghị KMV thực hiện bán phần mực, vật tư như đã hứa. Ngày 07-01-2015, ông Trần Vũ và ông Đào Viêt Linh mang Bảng Chào Giá dịch vụ tính phí theo trang in đến Printing Shop để tôi ký hợp đồng Click Charge. Nhưng khi hỏi ông Trần Minh Nhật thì giá Click Charge do Sao Nam bán ra chỉ 600 đồng/Click Charge, còn Bảng Chào Giá của KMV đến 700đồng/Click Charge nên tôi không thể ký được hợp đồng với KMV. Tên, điện thoại của ông Đào Việt Linh và chữ ký ông Trần Vũ có trên Bảng Chào Giá này, nhưng sau khi thu hồi máy C1100 bất thành thì KMV chối bỏ mọi liên hệ với Saigonbook. Phải làm sáng tỏ vụ án này để nhân dân và chính phủ Nhật biết thực trạng hoạt động của tập đoàn Konica Minolta tại Việt Nam.

Giống như máy in C1070P đã mua trước đó, tôi trả tiền cho Sao Nam qua những ống mực do Sao Nam cung cấp theo từng hóa đơn. Giá máy cao ngút trời, giá mực cao, dẫn đến giá trang in cao nên không có khách. Máy C1100 hoàn tất việc lắp đặt ngày 05-01-2015 mà đến ngày 06-08-2015, là ngày dừng hoạt động, để Sao Nam thu hồi, số đếm trên đồng hồ máy C1100 chỉ 225.771 Click Charge. Đơn khởi kiện ngày 10-11-2015, tính khấu hao để trả tiền lại cho KMVSao Nam, cũng dừng ở 225.771 Click charge. Số bản in này thấp hơn số trang in được tặng, 400.000 Click Charge, khi ký hợp đồng mua máy C1100 của STS.

Tại trang 9 bản án sơ thẩm, Sao Nam khai bừa rằng “Ngay từ lúc chào giá, Sao Nam có đưa ra cho Saigonboook hai phương án để áp dụng trong quá trình vận hành máy: Một là Saigonbook mua vật tư, phụ tùng, linh kiện trực tiếp từ Sao Nam để sử dụng, hai là ký hợp đồng Click charge để tính phí theo trang in. Nhưng sau đó, Saigonbook đã chọn cách thức là mua hàng trực tiếp từ Sao Nam để sử dụng, bằng chứng là các hóa đơn chứng từ mua vật tư, phụ tùng từ lúc lắp đặt máy đến tháng 08/2015. Như vậy, Sao Nam không có lừa dối về dịch vụ Click Charge“. Thế nhưng, Bảng Chào Giá số 128 ngày 14-10-2014 là cơ sở xác lập hợp đồng 038 là không có thông tin Click Charge như Bảng Chào Giá số 97 ngày 16-07-2015, cũng của Sao Nam, có Click Charge. Các bảng báo giá của KMV và các đại lý, đối với máy C1100, đều có phần Click Charge. Hợp đồng mua máy C1100 với STS cũng có phần Click Charge với 500 đồng/Click charge.

Sau khi có bản án phúc thẩm số 1106/KDTM-PT ngày 22-09-2016, tôi chuẩn bị một kế hoạch đấu tranh để giám đốc thẩm và sau giám đốc thẩm, nên đã cài đặt hàng loạt tài liệu để đề phòng KMVSao Nam chối tội. Những tài liệu này đã được hội đồng xét xử phúc thẩm lần thứ hai “chấp nhận là chứng cứ trong vụ án“, tại trang 12 bản án phúc thẩm số 528/2021/KDTM-PT. Nội dung các văn bản này chứng minh tính chất lừa đảo, chạy tội và rất lưu manh của bọn KMVSao Nam. Ngày 15-10-2016, Saigonbook gửi văn bản số 15/2016-SG đến KMVSao Nam, đề nghị đưa máy vào hoạt động. Trong văn bản 15/2016-SG, Saigonbook nói rõ là về tình trạng không có Click charge, không có mật khẩu mở máy, đề nghị KMVSao Nam tìm giải pháp hoặc chỉ định người nào có thể giúp đưa được máy vào hoạt động. KMV không trả lời còn Sao Nam thì gửi văn bản số 028/ADM-16 trả lời rằng “Họ đề nghị hoãn lại đến đầu tháng 11/2016”. Như vậy, văn bản số 028/ADM-16 của Sao Nam đã xác nhận là KMV là bên chịu trách nhiệm chính tình trạng máy không có mật khẩu và dịch vụ Click Charge. Cuối tháng 11 năm 2016, Sao Nam cử nhân viên kỹ thuật là ông Phạm Thanh Vũ đến Printing Shop của Sigonbook để kiểm tra, ghi nhận tình trạng máy theo Phiếu công tác số 0001911 ngày 29-11-2016. Trong phiếu công tác số 0001911, ông Phạm Thanh Vũ ghi nhận số Total trên đồng hồ là 225.771, trùng với số liệu tính khấu hao 225.771 trang in, thể hiện trong đơn khởi kiện ngày 10-11-2015 của Saigonbook. Nghĩa là, máy không thể hoạt động cho đến thời điểm 29-11-2016. Để nhanh chóng thu thập thêm chứng cứ nên khi ông Trần Kim Chung báo qui trình sửa chữa, tôi liền ghi vào mục ghi chú của Phiếu công tác số 0001911, nội dung: “Khỏi cần làm qui trình, đồng ý theo Sao Nam, không thắc mắc, khiếu nại gì“. Ngày 8-12-2016, tôi nhận được văn bản số 036/ADM-16 ngày 06-12-2016Bảng chào giá số 239/SPR/16 ngày 7-12 – 2016 của Sao Nam. Lập tức, sáng ngày 8-12-2016, tôi chuyển ngay một lần, toàn bộ số tiền là 103.626.655 đồng, theo đúng Bảng chào giá số 239/SPR/16. Nhận được tiền của tôi chuyển khoản của tôi, chiều ngày 8-12-2016, Sao Nam đã xuất kho vật tư sửa chữa máy C1100 và cử nhân viên kỹ thuật đến Printing Shop để sửa chữa. Sau khi sửa chữa, khắc phục các lỗi, Sao Nam đưa gửi cho Saigonbook bản thảo Hợp đồng bảo trì máy in trọn gói số 006/HĐKT-17 ngày 15-02-2017. Tôi đã đề nghị ông Trần Kim Chung ký và đóng dấu để tôi ký sau. Mục đích của tôi là lấy Hợp đồng Click Charge để chứng minh với các doanh nhân và người tiêu dùng trên phạm vi toàn thế giới rằng, bọn Konica Minolta đã đến Việt Nam lừa tôi đến mức tán gia bại sản. Tôi chuyển nhượng 3 máy in, C1100, 654E và C654, mua của STS cho Công ty TNHH Thương mại Quảng cáo Oanh Trần và lấy giấy đồng ý làm dịch vụ Click Charge của STS, lúc này đã đổi thành LeFaMi, để làm chứng từ so sánh với máy C1100 của Sao Nam, không có Click charge thì không thể bán cho ai được. Tôi cũng thuê Thừa Phát Lại Quận 5 lập vi bằng, ghi nhận hiện trạng máy không hoạt động, trước khi “Dừng doanh nghiệp – Đòi công lý“.

7. Lừa dối về chất lượng: Khi giới thiệu máy in C1100 để tôi mua làm Printing Shop, các ông Trần Minh Nhật, Đỗ Giang Khánh, ông Trần Vũ, ông Đào Việt Linh đều ca ngợi “Đây là chiếc máy in có tính năng vượt trội, hiện đại nhất, được sản xuất tại Nhật Bản năm 2014“. Ông Đỗ Giang Khánh và ông Trần Minh Nhật còn nói thêm rằng “Máy này mới chỉ xuất qua thị trường châu Âu và Bắc Mỹ 9 chiếc, xuất qua thị trường châu Á  2 chiếc, Trung Quốc và Ấn Độ, mỗi nơi một chiếc”. Thế nhưng, chiếc máy C1100 chỉ là chiếc máy in tầm thường, giống hệt chiếc máy in C1085 mà hãng Konica Minolta đã bán ra trước đó vài năm, chỉ khác nhau tên gọi và thông số tốc độ in. Theo Catalogue của Konica Minolta thì máy in C1085 có tốc độ 85 trang in/phút, còn máy in C1085 có tốc độ 100 trang in/phút. Các chi tiết còn lại giống hệt nhau, mực và vật tư tiêu hao giống nhau. Vì thế, trên Catalogue của Konica Minilta ghi C1100/1085, nghĩa là hai máy này đi liền với nhau, gần như nhau, sử dụng chung vật tư và dịch vụ kỹ thuật.

Máy in C1100 là chiếc máy in tầm thường, thỉnh toảng bị lỗi kỹ thuật. Ngày 26-03-2015, Sao Nam gửi văn bản xin nghiệm thu trong lúc máy còn bị lỗi và hứa sẽ khắc phục lỗi sau khi Saigonbook đã nghiệm thu. Vì thiện chí làm ăn, tôi đã ký nghiệm thu và ký khế ước nhận nợ vay để ACBL thanh toán tiền cho họ. Sau khi nghiệm thu máy cũng nhiều lần bị lỗi, nhất là mỗi khi in giấy có định lượng trên giấy C300 hoặc B300. Ngày 15-07-2015, Sao Nam gửi văn bản xác nhận ghi nhận tình trạng lổi của hai máy in C1070PC1100. Với những tài liệu này, cùng với xuất xứ máy Trung Quốc, vi bằng về Printing Shop, đủ để kết luận KMVSao Nam lừa dối về chất lượng nhưng tại phiên tòa phúc thẩm lại lần thứ hai, ngày 26-05-2021, tôi rút khiếu nại về chất lượng. Đây chỉ đơn thuần về mặt kỹ thuật tố tụng, vì dấu hiệu tố tụng cho thấy, phía KMV, Sao Nam cùng với Viện kiểm sát và Tòa án tìm cách kéo dài vụ án. Sau ba lần tạm ngưng phiên tòa để thu thập tài liệu chứng cứ nhưng bị tôi bác vì thu thập tài liệu chứng cứ không đúng qui định, họ đòi giám định chất lượng máy. Vối tình trạng máy in được sản xuất tại Trung Quốc, đã qua 6 năm để ở vỉa hè 474- Nguyễn Thị Minh Khai thì đâu còn gì để mà giám định. Vì thế, tôi rút khiếu nại về chất lượng để họ hết lý do kéo dài vụ án. Thế nhưng, Viện kiểm sát và tòa án vẫn tìm ra lý do khác, trái pháp luật, để hủy án sơ thẩm. Việc đó, sẽ được phân tích ở phần phúc thẩm lần thứ hai./.

 

 

| Chia sẻ:
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+
Nam Lua

Nam Lua

Bình luận

avatar